Trở Lại Thăng Long
Sau lần đối diện với hình dáng của kiếp trước, tôi bỗng nảy sinh ý định muốn nhìn thấy hình dáng của Trần Quang Diệu mà theo lịch sử ghi chép lại thì kiếp trước tôi và ông ấy là người một nhà và là hai tướng lãnh trung thành bảo vệ Tây Sơn cho tới cuối đời cùng bị nhà Nguyễn hành hình một cách ác nghiệt. Tôi nài nỉ Hi Doãn đưa tôi trở về quá khứ như lần vừa rồi và Hi Doãn đã đồng ý. Theo lịch sử thì Ngô Thời Nhiệm tức Hi Doãn và Trần Quang Diệu đều là các vị có công sức lớn trong việc làm nên chiến thắng quân Thanh năm Kỷ Dậu, hẳn là họ quen thuộc gương mặt của nhau nhưng không chắc Hi Doãn có còn nhớ được hay không? Chúng tôi quyết định sẽ tìm gặp Trần Quang Diệu vào lúc quân Tây Sơn vào chiếm cứ Thăng Long sau khi đã đánh cho Tôn Sĩ Nghị ôm đầu, ôm cổ mà bỏ chạy.
Mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789, sáng mùng 5 Tết, khắp kinh thành Thăng Long dân chúng đổ ra tràn ngập các đường phố, mọi người cầm trong tay những cành đào tươi thắm và những lá cờ ngũ sắc. Chiên, trống, kèn, loa vang lừng khắp nơi vô cùng tưng bừng náo nhiệt. Vua Quang Trung ngự trên thớt voi cùng đoàn quân chiến thắng, oai phong lẫm liệt tiến vào kinh thành; Chiến bào của ngài sạm màu thuốc súng của những ngày đêm chiến đấu ác liệt. Tiếng reo hò vang dậy khắp nơi, mọi người hân hoan, vui mừng chào đón vị anh hùng cùng quân đội Tây Sơn hùng mạnh, tốc chiến, tốc thắng vừa đánh cho bọn giặc Thanh một trận tan tác chim muông, tanh bành khói lữa. Lòng người như mở hội, không gì tả xiết niềm vui mừng khi nước nhà hoàn toàn sạch bóng quân thù:
“ Đào hoa đua nở, Xuân nồng thắm
Quân về trẩy hội khắp Thăng Long
Một trận kình ngư tan tác giặc
Tưng bừng hào khí trải non sông
Tây Sơn vạn nẻo anh hùng bước
Vang dội trời Nam một chiến công ”
Tôi len lỏi trong đám đông dân chúng để quan sát, tìm kiếm xem ai là Trần Quang Diệu trong hàng ngũ tướng soái của đoàn quân Tây Sơn. Tuy rằng theo ký ức của Hi Doãn để trở về quá khứ, nhưng chính tôi và Hi Doãn cũng không thể trao đổi, trò chuyện với nhau nên tôi chỉ còn cách dùng trực giác của mình để phán đoán. Hàng ngũ tướng Tây Sơn toàn là những người dũng mãnh nhưng vì Quang Diệu và tôi là người phối ngẫu của nhau trong tiền kiếp nên ắt hẳn sẽ là người tôi có thiện cảm nhất.
Quả nhiên, linh cảm khiến tôi chú ý một người tôi cho là Quang Diệu. Ông ấy có khuông mặt tuy cương nghị nhưng vô cùng phúc hậu. Dẫn đầu một đoàn quân, ông cưỡi ngựa, lưng mang một thanh đại đao, dáng thật uy nghi, kiêu hãnh. Vừa trông thấy ông là lòng tôi bỗng thấy cảm mến lạ thường nhưng vẫn không dám chắc vì thiện cảm quá lớn của tôi đối với tất cả tướng, sĩ Tây Sơn. Bởi vì trong ký ức của Hi Doãn, tôi chỉ có thể quan sát chứ không thể tiếp xúc và nói chuyện với những hình ảnh, do đó không thể điều tra gì hơn ngoài việc tự dùng trí não mà phán đoán, đúng, sai thì chưa thể lấy gì kết luận được.
Đang chen lấn trong đám đông dân chúng đang ăn mừng một cái Tết tưng bừng, vui vẻ, tôi bỗng để ý thấy có một vài nhân vật khác thường, cách ăn bận trang phục của họ không giống với đa số dân chúng nên bèn lén theo dõi họ ở phía sau xem sao? Được một chốc thì tôi nghe có hai tên nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán, hình như chúng trao đổi với nhau những tín hiệu mật khẩu. Sực nghĩ đến Hi Doãn tôi đang cùng trong trạng thái tiềm thức trở về quá khứ và anh ấy có thể đang gặp nguy hiểm, tôi vội vàng trở lại chỗ xuất phát điểm để tìm Hi Doãn, lúc anh ấy đang cưỡi ngựa cùng đoàn quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Toán Quân của Hi Doãn đi phía sau toán Quân của Hoàng đế Quang Trung và sau cả các toán quân của các tướng lãnh khác nhưng anh ấy lại là nhân vật chính của hồi ức.
Đúng như nghi ngờ của tôi, có hai kẻ lạ đang đi gần Hi Doãn. Bọn chúng có thể xâm hại đến sự sống còn của anh ấy. Nhưng vì chỉ là người quan sát chứ không thể giao tiếp với Hi Doãn cho nên tôi chưa biết làm sao nói cho anh ấy biết. Cách tốt nhất là tôi phải dụ cho bọn chúng chuyển hướng chú ý sang mình.
Tôi chạy lại phía sau hai kẻ lạ mặt và đập vào vai chúng rồi bỏ chạy. Đúng như dự đoán, hai tên đó không phải là hình ảnh trong ký ức của Hi Doãn mà là là hai kẻ thâm nhập, bọn chúng quay lại và rượt theo tôi. Dùng thuật khinh công, tôi phi thân qua khỏi đám đông dân chúng và thoát về hướng Hồ Tây. Thăng long của quá khứ 1789 vẫn còn nhiều cánh rừng và đầm lầy nên tôi muốn dẫn dụ bọn chúng về phía ấy giao đấu. Không ngờ, bọn chúng cũng là những kẻ bản lãnh nên tôi bị truy sát ngay phía sau lưng một cách gắt gao.
Vì đã có chuẩn bị nên tôi đã có hai thanh kiếm để sẵn sàng chiến đấu. Song phượng kiếm là sở trường của tôi nên tôi hoàn toàn có thể đối đầu với bọn chúng mà không hề nao núng. Một trong hai tên xông vào tôi trước, hắn sử dụng trường thương múa vun vút một cách điêu luyện, vừa đâm, vừa quất khiến tôi phải dùng cả hai kiếm để chống đỡ. Ban đầu hắn chiếm thế thượng phong nhưng sau khi đã biết lối đánh của hắn, tôi bắt đầu tấn công lại. Với hai thanh kiếm vừa đỡ, vừa chém rồi thình lình, tôi xuống tấn, xoay người,trở kiếm đâm vào hông hắn một phát chí mạng.
Lạ thay, hắn chỉ cười gằn một tiếng, dùng tay nắm cả lưỡi kiếm bén mà đoạt lấy rồi ung dung rút kiếm ra khỏi người hắn như không có gì xảy ra. Thì ra bọn chúng là đám robot điện toán, nghĩa là tôi đang lọt vào tình thế thập phần nguy hiểm. Biết mình không thể thắng, tôi lao nhanh về cánh rừng rậm phía đầm lầy để tìm chỗ thoát thân, bọn chúng đuổi theo bén gót. May mà trời đã tắt nắng nên bọn chúng đã gặp khó khăn khi tìm kiếm tôi trong rừng. Thình lình, có tiếng gầm, rống rồi từ trong bóng tối, một con cọp to lớn lao ra tấn công hai tên lạ mặt. Bị bất ngờ, bọn chúng đành quay sang đánh nhau với mãnh hổ. Tuy nhiên, vì bọn chúng là những công cụ bất tử nên cho dù bị cọp táng mấy phát như trời giáng, bọn chúng không hề hấn gì, tình thế không mấy gì sáng sủa hơn cho lắm.
Lại thêm một sự bất ngờ khác, từ trong cánh rừng, một con voi khổng lồ lao ra, trên lưng nó hình như có một người điều khiển. Con voi lấy vòi cuộn lấy một tên quật xuống, rồi dùng bàn chân khổng lồ dẫm lên người hắn hòng đè bẹp. Nhưng khi voi vừa nhấc chân lên thì hắn lại đứng lên bình thường rồi trở giáo đâm vào hông voi một phát thật mạnh khiến con voi đau đớn rít lên. Bằng bản năng, chú voi lấy vòi hút nước trong vũng lầy gần bên rồi phun thật mạnh vào tên cầm giáo. Bất ngờ, cơ thể hắn bỗng phát ra tiếng nổ lắp bắp rồi vụt một cái biến mất dạng không còn dấu vết gì cả. Thì ra chúng là những thành phần điện kỵ nước, tôi đã biết ý nên nhào tới rồi lấy tay vốc nước tạt vào tên còn lại, hắn cũng nỗ lắp bắp rồi tan biến mất.
– Xin cảm ơn anh vì đã ra tay ứng cứu, xin anh cho biết tên? Tôi tên là Nguyên Hãn. Tôi cúi chào và nói với người quản tượng.
– Tôi là Hiệu Ân, ngài Quang Diệu đã sai tôi đến tiếp cứu ngài ở đây.
– Trần Quang Diệu?
– Đúng vậy, ngài Quang Diệu bây giờ đã trở thành một vị thần. Do ngài có công đức quá lớn nhưng lại không thể đầu thai chuyển kiếp được vì đã bị hành hình quá thảm khốc. Ngài biết anh sẽ tới đây nên sai tôi tới giúp và cho biết hai vị sẽ có lúc gặp mặt nhau.
Tôi bỗng thấy nghẹn ngào, xúc động quá mức không nói gì được nữa. Hiệu Ân từ giã tôi hẹn có dịp tái ngộ. Tôi cũng phải trở về thực tại vì tình trạng sẽ rất nguy hiểm cho Hi Doãn nếu bọn robot trở lại. Bọn chúng tạm thời chỉ bị nhiễu loạn chứ bọn chúng không thể chết được.
Sau khi trở về hiện tại và hiểu rằng Hi Doãn không hề hay biết gì những nguy hiểm kề cận. Tôi bèn kể lại việc bị bọn robot tấn công cho anh ấy nghe.
– Vậy thì chúng ta phải làm sao? Hi Doãn hỏi.
– Tạm thời, chúng ta đừng trở lại thời 1789 nữa vì đó là thời điểm mà bọn chúng chú ý. Nhưng tần số của anh đã bị phát hiện thì anh cần một mã khóa an toàn khi nhập định. Việc này cần phải tìm cách thực hiện.
– Nhưng tại sao anh lại có thể đi xa hơn khi thâm nhập vào ký ức của tôi vậy? Sao anh có thể đến khu đầm lầy 1789 mà chính tôi không nhớ tới khi đó? Và Sao anh lại có thể tiếp xúc với kẻ lạ không có trong ký ức của tôi được
– Ờ há. Kể cũng lạ, sao tôi lại có thể vượt tới khoảng không gian xa hơn trong đoạn hồi tưởng ấy được nhỉ.
Suy nghĩ một chốc, tôi bỗng nghiệm ra một điều. Thì ra tinh thần của con người cũng là một thế giới và nó cũng có không gian rộng lớn. Chính bản thân mỗi người cũng không khám phá ra chính mình nữa. Tuy rằng lúc ấy Hi Doãn không nghĩ tới vùng đầm lầy, nhưng trong ký ức của anh ấy có biết về nó, và tôi đã thâm nhập vào ký ức đó nên đã vô tình khám phá ra. Hay thật, nếu thâm nhập vào được thì tôi có thể lục lọi tìm kiếm được giống như bọn hacker xâm nhập vào máy tính của người khác vậy. Nhưng như vậy thì cũng quá nguy hiểm khi kẻ thù cũng thâm nhập được, bọn chúng có thể phá hoại lung tung?
– Hi Doãn à, trường tinh thần của chúng ta rộng lớn hơn mình tưởng và có khả năng giao thoa với thế giới khác. Chính vì thế mà tôi có thể phiêu lưu trong thế giới hồi ức của anh mà còn tiếp xúc với kẻ lạ thâm nhập. Bây giờ chúng ta cần phải thận trọng hơn, bọn ác có thể gây nguy hiểm cho anh và cả cho tôi nữa.
– OK, mình sẽ cẩn thận đề phòng.
Chia tay Hi Doãn, tôi trở về gặp Hà Mi để kể cho nàng nghe về cuộc phiêu lưu về quá khứ của tôi cùng với Hi Doãn. Gặp lại nhau, Hà Mi và tôi vui mừng khôn xiết, tôi kể cho nàng nghe những gì đã trải qua.
– Trần Quang Diệu là một vị thần ư? Như vậy rỏ ràng kiếp trước của em không dính dáng gì với ông ấy? Hà Mi đặt vấn đề.
– Phải rồi. Người yêu kiếp này chưa chắc là người yêu của kiếp trước.
– Chắc là anh mắc nợ em kiếp trước quá? Hi, hi, hi….Hà Mi cười đùa giỡn.
– Em mắc nợ anh thì có, kiếp trước em còn thiếu anh mấy trăm lượng bạc, Ha, ha, ha…
– Nợ tiền sao trả bằng tình được? Anh nói bậy. Nàng nguýt mắt trả lời.
– Ai mà biết, em trở về quá khứ tìm hiểu đi. Tôi vừa nói vừa âu yếm vuốt tóc nàng
Hà Mi dịu dàng ngã vào vai tôi, đêm nay nàng sẽ ở lại. Tôi thấy mình thật hạnh phúc
Gặp gở cố nhân
Nửa đêm, đang ngủ nghe có ai khều tay mình, tôi giật mình khi phát hiện đó là một con cọp nhưng nó dường như không có ý gì muốn hại mình. Thì ra đó là con cọp đã cứu nguy tôi lần vừa qua.
Chưa kịp định thần thì cọp quay đi rồi ngoảnh lại như ra dấu bảo tôi đi theo. Mãnh hổ lao thật nhanh về phía trước nhanh như cuồng phong khiến tôi phải phi thân rượt theo để không bị mất dấu. Đến một cánh rừng thì cọp biến mất. Tôi đứng lại xem việc gì xảy ra.
Có ánh sáng lập lòe từ trong rừng đang di chuyển về phía tôi giống như có người đang cầm một ngọn đuốc, càng đến gần thì càng sáng hơn. Đột nhiên bị lóa mắt vì nguồn ánh sáng rực rỡ, tôi vội lấy tay che mắt lại đến khi cảm thấy bớt chói thì chợt nhận ra có một người đang đứng trước mặt mình, một người đàn ông.
– Ta chờ đợi phút giây này đã lâu, nàng có nhận ra ta không? Ông ta nói.
Bất giác, tôi nhận ra mình trong hình dáng của kiếp trước. Giọng nói ấy nghe có sức truyền cảm mãnh liệt khiến tôi bỗng thấy tim mình rung động một cách dữ dội, một tình cảm như có sẵn tự bao giờ bỗng trỗi dậy từ trong tiềm thức sâu thẳm. Người ấy bất ngờ ôm chầm lấy tôi thật chặt trong vòng tay rắn chắc, còn tôi thì tự nhiên mềm nhũn một cách thụ động và nghẹn ngào không nói nên lời.
Tôi hoàn toàn đánh mất ý thức, chỉ biết cảm giác thật ấm áp và tình cảm yêu thương trìu mến trào dâng mãnh liệt. Ánh trăng sáng vằng vặc rọi chiếu bóng của hai người xuống mặt đất, bản năng bỗng khiến tôi khóc nức nỡ như chưa từng bao giờ được khóc và hầu như hoàn toàn hóa thân trong một người đàn bà đang cảm nhận sự ấm áp trong tình yêu thương của người thân yêu.
– Em à, anh đến để báo cho em biết rằng chúng ta cần phải cứu đứa con của hai chúng ta, nó đang gặp khổ nạn. Quang Diệu lấy tay lau nước mắt cho tôi và nói, phải chính là anh ấy.
– Con chúng ta, anh muốn nói đến Xuân Nhi?
– Phải, nhưng kiếp này nó là đứa con trai và nó đang bị rơi vào điên loạn vì sự sợ hãi khi bị hành hình của kiếp trước vẫn theo ám ảnh nó. Em cứu lấy Xuân Nhi thoát khỏi tình cảnh đáng thương của nó nghe em?
– Nhưng kiếp này nó là ai? Sinh ra trong gia đình nào? và ở nơi nào?
– Nó vẫn ở chốn cũ và không đi đâu. Trong một gia đình nghèo khó. Em hãy về lại quê hương của kiếp trước tự khắc sẽ gặp được nó.
– Vâng, em sẽ đi tìm nó. Còn anh thì sao? Tôi vừa lau nước mắt vừa hỏi.
– Từ giờ trở đi anh sẽ luôn theo bên cạnh để giúp đỡ em và con. Nhưng anh không làm thế công việc của người trần gian được, em hãy cố gắng.
– Dạ.
– Kiếp này đã thay đổi và chúng ta đã trả dứt duyên tình của kiếp trước. Vậy em hãy đừng bận tâm về tình cảm với ta nữa. Hãy nghĩ tới ta như một chiến hữu, ta sẽ luôn sát cánh với em trong những tình huống cam go nhất.
– Dạ.
Quang Diệu giơ tay từ giã rồi lùi dần vào bóng tối, nguồn sáng yếu dần rồi vụt tắt. Tôi bỗng giật mình tỉnh giấc, cảm giác vẫn còn bồn chồn, xao xuyến một cách lạ thường, mãi mấy ngày sau vẫn thôi chưa khỏi vấn vương giấc mộng lạ thường. Tôi sẽ đi tìm Xuân nhi.
Tiểu Sử TRẦN QUANG DIỆU
Sau đây, để có thể kể rõ ngọn ngành, đầu đuôi câu chuyện, tôi xin trích dẫn phần tiểu sử của Trần Quang Diệu trong Wikipedia. Trong đại tự điển này, mọi người có thể tìm thấy rất nhiều nội dung mà mình cần đến.
Trần Quang Diệu (chữ Hán: 陳光耀; 1760 – 1802) là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã cố sức chiến đấu để bảo vệ vương triều này, nhưng không thành công, và cả hai đều bị vua Gia Long xử tội chết.
Quê quán và họ tên
Trước đây có ba ý kiến khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu:
– Một là ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
– Hai là ở xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
– Ba là ở làng Nam Ô, thuộc huyện Hòa vang, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng).
Sau, nhờ tìm được mộ của mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), cách chân núi khoảng 30 m trong vườn của ông Trần Xê. Ngôi mộ này được lập vào tháng 3 năm Nhâm Tý (1792), thời chính quyền Tây Sơn quản lý đất Quảng Nam. Và qua xác minh nhiều nguồn tư liệu (trong đó có Gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải), đầu năm 1996, Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng đã ra thông báo rằng:
Trần Quang Diệu, vốn có tên Trần Văn Đạt, là người ở làng An Hải (trước thuộc huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam; nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng), là con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy
Sự nghiệp
Gia nhập quân Tây Sơn:
Theo lời kể dân gian, Trần Quang Diệu là người rất giỏi võ. Một hôm trên đường từ Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp thủ lĩnh phong trào Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, thì bị cọp dữ tấn công. Chống trả được một hồi, ông Diệu vừa bị thương vừa đuối sức, Bùi Thị Xuân tình cờ đi qua đấy liền xông vào cứu được mạng ông. Ít lâu sau, nhờ Nguyễn Nhạc đứng ra làm chủ hôn, Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trở thành vợ chồng, rồi cùng trải bao gian lao dưới ngọn cờ khởi nghĩa Tây Sơn.
Trong chiến thắng Kỷ Dậu 1789, Trần Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy. Sau trận đại thắng này, ông được cử làm đốc trấn Nghệ An, vừa lãnh nhiệm vụ trấn thủ, vừa lo việc xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô ở đây.
Năm 1791, Ai Lao (Lào) thiếu cống, vua Quang Trung bèn phong cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại tổng quản, Lê Trung (có sách chép Lê Văn Trung) làm đại tư lệ cùng xuất quân tiến sang. Vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Quân Tây Sơn tràn vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa…đem về nước.
Dưới thời Cảnh Thịnh
Tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột qua đời. Tuân theo di chiếu, Trần Quang Diệu, Bùi Đắc Tuyên và Vũ Văn Dũng cùng tôn phò Nguyễn Quang Toản (10 tuổi) lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh.
Năm 1793, quân chúa Nguyễn kéo ra bao vây thành Quy Nhơn do Nguyễn Nhạc cai quản. Nhận lời cầu cứu, vua Cảnh Thịnh cử Trần Quang Diệu dẫn quân vào đánh giải vây được. Sách Lê Quý Dật sử chép:
Nguyễn Nhạc mở cửa thành đón tiếp quan quân, phát tiền bạc, quần áo, lương thực. Tướng sĩ của Quang Diệu cậy công lấn bức, vô lễ. Không bao lâu, Nguyễn Nhạc ôm hận uống thuốc độc chết. Quang Diệu nhân đó tịch thu vàng bạc trong kho và voi ngự dâng nộp. Quang Toản sai tướng chia quân chiếm cứ thành Quy Nhơn.
Năm 1795, Trần Quang Diệu một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn và Phạm Công Hưng lập mưu giết tướng Ngô Văn Sở và cha con thái sư Bùi Đắc Tuyên. Hay tin, Trần Quang Diệu vội thu quân về triều, đóng quân ở mạn Nam sông Hương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Vua Cảnh Thịnh phải cho người ra khuyên giải, mâu thuẫn giữa hai đại tướng mới được thu xếp ổn thỏa. Kể từ đó, Trần Quang Diệu làm thái phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ và Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần.
Nhưng chẳng lâu sau, vua Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha rút hết binh quyền của thái phó Quang Diệu. Thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, năm 1799, chúa Nguyễn bèn cử đại binh ra đánh, đến tháng 5 (âm lịch) thì bao vây thành Quy Nhơn. Khi ấy, Trần Quang Diệu mới được giao lại binh quyền để cùng Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu. Theo Việt Nam sử lược thì quân của Vũ Văn Dũng không đánh mà tan. Việc ấy là tội của tướng chỉ huy, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi. Cảm ơn ấy, Vũ Văn Dũng kết nghĩa sinh tử với Trần Quang Diệu. Bấy giờ, có mấy người ganh ghét muốn nhân dịp này mà đổ tội cho ông bèn tâu với nhà vua. Vua Cảnh Thịnh liền sai người đem mật thư ra bảo Văn Dũng hãy diệt trừ Quang Diệu. Được Vũ Văn Dũng cho xem thư, thái phó Diệu tức tốc dẫn quân về triều, nói là để bắt quân phản loạn. Cuối cùng, vua Cảnh Thịnh phải bắt mấy mật tấu giao cho ông, việc mới yên.
Dẫn quân trở lại Quy Nhơn, đến tháng Giêng năm Canh Thân (1800), thì Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cùng tấn công thành. Tướng Nguyễn là Võ Tánh giữ vững không ra đánh. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chia quân vây bốn mặt; Vũ Văn Dũng đem thủy quân ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt pháo để cản ngăn quân cứu viện. Được tin thành Quy Nhơn bị vây, chúa Nguyễn cử đại quân ra cứu Quy Nhơn, các tướng Nguyễn phá tan thủy quân Tây Sơn ở Trận Thị Nại. Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại lên bộ hợp quân với Trần Quang Diệu. Quân Tây Sơn vây thành càng ngặt.
Nhận thấy hai tướng giỏi nhất và tinh binh Tây Sơn tập trung cả ở Quy Nhơn, Võ Tánh viết thư khuyên chúa Nguyễn đừng vội lo giải vây, mà hãy ra đánh Phú Xuân trước. Nguyễn Phúc Ánh nghe theo, đến tháng 5 (âm lịch) năm 1801, thủy quân Nguyễn ra đánh chiếm được Phú Xuân. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe tin nơi ấy thất thủ, sai tướng đem quân về cứu, nhưng đến Quảng Nam thì bị chặn lại phải quay về. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng càng dốc quân đánh thành Quy Nhơn. Trong thành hết lương thực, Võ Tánh đưa thư cho Trần Quang Diệu nói rằng: “Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại”. Sau đó, Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu Bát Giác tự thiêu, hiệp trấn Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng cho hai người tử tế, và tha cho tướng sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng đều thất bại.
Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch, khó bề chống giữ. Tháng 3 âm lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân đã thua trận ở Trấn Ninh (tháng Giêng năm 1802), Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì nghe thành Nghệ An đã thất thủ, Trần Quang Diệu và vợ con bèn về huyện Thanh Chương. Lúc này, tướng sĩ đi theo dần rời bỏ, trốn được mấy hôm thì cả nhà ông đều bị quân đối phương bắt sống.
Bị xử chết
Nguyễn Phúc Ánh, khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long (1802), chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:
“Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu..”
Biết không thể khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết. Về cái chết của ông, có bốn thông tin:
– Trần Quang Diệu và các tướng lĩnh khác bị chém bêu đầu: ”Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ; Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng”
– Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, cho rằng vì ông thờ mẹ già 80 tuổi có hiếu nên vua Gia Long chỉ ra lệnh chém đầu, chứ không hành hình như một số người khác
– GS. Nguyễn Khắc Thuần, cho rằng ông bị xử lột da sống. Thông tin này được nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận, trong đó có: Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Quách Tấn, Trần Xuân Sinh
– Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Thông tin này lấy trong sách Lịch sử nội chiến 1771-1802 của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường.
Thông tin liên quan:
Tương truyền, Trần Quang Diệu học văn học võ nhiều thầy. Một lần ông đi săn trên núi Kim Sơn ở Hoài Ân, tình cờ gặp được một ông lão tên là Diệp Đình Tòng, vì can tội giết chết một viên tri huyện tham ô, mà ông và vợ con phải trốn vào đây. Trong hơn 20 năm dài ấy, không chịu nổi sơn lam chướng khí, vợ con ông đều đã lần lượt qua đời. Ông Tòng là người thông thạo cả năm món binh khí, đó là: đao, kiếm, kích, thương và cung. Tuy nhiên, Trần Quang Diệu chỉ học môn đại đao. Năm năm sau, thầy mất, Trần Quang Diệu băng núi rừng đến đầu quân Tây Sơn.
Theo sách Danh tướng Việt Nam, khi Nguyễn Nhạc dựng cờ xướng nghĩa ở Tây Sơn (1771), thì Trần Quang Diệu là một trong số những người hưởng ứng sớm nhất. Theo sách Nhà Tây Sơn, khi Nguyễn Nhạc lập kế hoạch đánh thành Quy Nhơn (1773), thì ông Diệu được giao đánh mặt nam của thành. Theo gia phả, ông Diệu sinh năm 1760, cho nên cả hai việc này không thể xảy ra, vì lúc ấy ông chỉ ở khoảng 11-13 tuổi.
Chuyện kể rằng Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) là đôi bạn cùng quê (cùng sinh ra ở An Hải, và cùng lứa tuổi) thân thiết. Sau quê hương loạn lạc, gia đình Trần Quang Diệu bỏ xứ về quê ngoại ở làng Trà Khê (nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng), còn Nguyễn văn Thoại thì theo cha mẹ vào sống tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long). Khi biết tin nhau thì hai ông đã ở hai bên chiến tuyến. Vào năm 1801, lúc Nguyễn Văn Thoại mang quân từ Vạn Tượng (Lào) tiến đánh Phú Xuân, nghe tin Trần Quang Diệu từ Quy Nhơn cầm binh ra tiếp cứu; vì không muốn đối đầu với bạn, nên ông Thoại giao binh quyền cho phó tướng của mình là Lưu Phước Tường rồi bỏ vào Gia Định. Vì vậy, ông bị chúa Nguyễn Phúc Ánh bắt tội là không có lệnh của vua mà tự tiện về, giáng xuống làm cai đội cai quản đạo Thanh Châu. Năm 1802, trong dịp khen thưởng những người có công, rất có thể vì chuyện này, mà ông cũng chỉ được nhà vua phong làm Khâm Sai Thống binh cai cơ sau mới thăng làm chưởng cơ. Tại cuộc “Hội thảo khoa học về danh nhân Thoại Ngọc Hầu nhân kỷ niệm 180 năm ngày mất”, được tổ chức tại Châu Đốc (An Giang) vào ngày 25 tháng 7 năm 2009, hành động “nặng tình bằng hữu” của ông Thoại đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao.
Sau khi Trần Quang Diệu mất (1802), con cháu của ông phải cải họ từ họ Trần sang họ Nguyễn, nhưng khi mất lại ghi trên bia mộ là họ Trần. Việc “sanh vi Nguyễn, tử vi Trần” (nghĩa là lúc sống mang họ Nguyễn, lúc chết mang họ Trần) vẫn còn ra cho đến ngày nay.