KIẾP TRƯỚC CỦA KIẾP TRƯỚC
Tây Sơn thất hổ gồm bảy thì đã có mặt sáu người: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lê Văn Hưng, Lý Văn Bưu, Nguyễn Văn Lộc. Duy có một người mà tôi mong gặp nhất sao lại không thấy đâu nên tôi hỏi Đình Tú:
– Còn nhị ca Quang Diệu sao chưa thấy, đệ có biết huynh ấy giờ ở đâu không?
– Huynh ấy có dặn em là sẽ gặp chị sau.
Tôi định hỏi thêm nữa thì Võ Văn Dũng đã ra hiệu lên đường, mọi người đều lấy ngựa, hành lý và xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, tất cả nghe theo sự chỉ huy của Văn Dũng. Kỷ luật của quân đội Tây Sơn vẫn nghiêm chỉnh như ngày nào, tất cả như thấm vào linh hồn của những anh hùng vị quốc. Lòng ái quốc dâng cao như một bài ca hào hùng, tinh thần hăng hái sẵn sàng xung trận, liều thân xông vào lằn tên mũi đạn vì nghĩa cả.
Tôi và Huyền Trân vẫn ngồi chung con Bạch Mã và đi sau cuối. Tôi hỏi Huyền Trân:
– Thưa công chúa, người và Tây Sơn không cùng thời đại, sao lại cùng có mặt lúc này vậy?
– Đó là vì chúng ta cùng tồn tại tại thượng tầng thứ sáu này, đây là lãnh địa của anh hùng hào kiệt đã hiến dâng đời mình cho đất nước, cho dù là người xuất thân từ tầng lớp nào sau khi chết thì linh hồn sẽ được đến đây tụ họp.
– Như vậy họ chính là hồn thiêng sông núi?
– Đúng vậy, linh hồn của các thế hệ đi trước vẫn tiếp tục tồn tại để phò hộ cho các thế hệ tiếp theo. Chỉ có những người xứng đáng mới được đến nơi này.
– Công chúa, vậy tôi thì sao ạ?
– Ngươi cũng là một trong số chúng ta nhưng bởi vì ngươi còn phải giúp đỡ cho Xuân Nhi, đứa con tiền kiếp của ngươi, nó sẽ là một người anh hùng kiệt xuất.
Đoàn người ngựa băng qua những thảo nguyên, những cánh rừng cuối cùng dừng lại tại một con sông lớn. Ở đây đã có sẵn những chiếc thuyền cắm sào chờ đón họ. Huyền Trân bảo tôi xuống ngựa rồi hai người cùng lên một chiếc thuyền nhỏ dẫn đường đi trước, những người khác cũng cùng nhau bước xuống những thuyền khác và tất cả cùng di chuyển tiếp. Thuyền đi xuôi theo dòng chảy nên đi rất nhanh, đi được hồi lâu thì công chúa ra hiệu cho thuyền rẽ vào một nhánh sông nhỏ đi tiếp và lần này thì ngược dòng nên các mái chèo phải ra sức chèo mạnh hơn, Đến một cánh rừng thì mọi người lên bờ để đi. Đoàn người đi dọc theo một con suối lần lên thượng nguồn, hai bên bờ các loài chim muôn với nhiều màu sắc xinh đẹp khác nhau cất tiếng hót với muôn vàn cung bật thánh thót, thì ra đây là một khu rừng nguyên sinh không hề có dấu vết khai khẩn của con người.
Đến vách đá là nơi phát sinh của dòng suối, mọi người đều phải trèo lên những bờ đá gập ghềnh có vách thẳng đứng. Không có gì làm khó được các anh hùng Tây Sơn. Cuối cùng, phía sau những lùm cây um tùm mọc giữa triền núi và những tảng đá che chắn là một cửa hang động. Quả đây là một hang động vô cùng bí mật, cửa hang chỉ bằng cở một miệng giếng nhỏ, mọi người phải bò mới chui qua được. Vào sâu hơn một ít thì lối đi đã rộng hơn nhưng tối đen như mực,mọi người phải thắp đuốc để đi tiếp. Đi được ít lâu thì thấy từ xa có ánh sáng lấp loáng, đến tới nơi thì ai nấy đều phát hiện có một lỗ thông gió và ánh sáng tự nhiên từ trên cao, thỉnh thoảng tạo thành những cơn lốc xoáy và gió rít trong hang. Ngạc nhiên hơn nữa, mọi người phát hiện ra có một con sông ngầm chắn ngang lối đi, tôi vội hỏi Huyền Trân:
– Công chúa, làm sao đây?
– Đợi một chút. Nói xong, Huyền Trân công chúa lấy một cây sáo trúc mà nàng mang theo bên người và thổi lên một khúc nhạc thanh thót như tiếng chim ca, vượn hú. Được một lúc thì từ xa xuất hiện một con thuyền lừ đừ đi tới. Mọi người vỗ tay reo mừng và cùng nhau xuống thuyền, dòng nước trong veo làm cho tôi cảm thấy trong lòng phấn chấn và thích thú vô cùng.
Thuyền đi trong hang động mà hai bên bờ lại có tiếng chim kêu, quạ hú, quả là một cảnh quang vô cùng kỳ diệu. Được một chốc thì chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi lọt vào một vùng tràn ngập ánh sáng, hai bên tai văng vẳng âm thanh trong trẻo của những tiếng chuông gió. Càng ngạc nhiên hơn khi thuyền tắp vào bờ, chúng tôi phát hiện ra mình đang hiện diện bên trong một hang động khổng lồ và đứng giữa trung tâm là tượng phật bà Quan Âm cao sừng sững, uy nghiêm, trang trọng.
Mọi người vội vàng lên bờ và đến quỳ lạy trước phật mẫu với tất cả lòng thành kính, ánh sáng chói lọi của mặt trời từ trên cao rọi xuống khiến không gian bỗng trở nên kỳ diệu lạ thường. Rồi tự nhiên nghe tiếng chim họa mi, sơn ca cất lên ríu rít, một đàn bồ câu trắng từ vòm ánh sáng trên cao xà xuống và bay lượn vòng trong hang động. Và rồi đáp xuống một tòa sen, một đức phật tọa thiền trên tòa sen ấy bỗng hiện diện đầy oai nghiêm và bát nhã.
– Chư vị, đây là đức Giác Hoàng Điếu Ngự Tổ Phật Trần Nhân Tông, cũng là cha đẻ của ta. Huyền Trân công chúa nói.
Nghe vậy mọi người quỳ sụp xuống lạy đức Phật, ngài chỉ mỉm miệng cười nhưng không nói gì.
Thình lình, có tiếng sấm vang rền kinh động cả không gian, từ trên cao một vị tướng oai phong lẫm liệt cưỡi ngựa bay xuống rồi bỏ ngựa đáp xuống đứng bên phải đức Giác Hoàng. Huyền Trân Công chúa nói tiếp:
– Còn đây là đức thánh Trần Hưng Đạo. Ngài đã là một vị thần hộ pháp phò trợ cho đất nước Đại Việt được bình yên,vô sự.
Mọi người quay qua quỳ vái lạy đức Thánh Trần, ngài đưa tay ra hiệu cho mọi người đứng lên rồi nói:
– Các vị anh hùng Tây Sơn, hôm nay ta muốn hội ngộ với các vị là muốn bàn với các vị một việc hệ trọng. Tiếng nói của ngài sang sảng, mạnh mẽ và đầy uy lực.
– Dạ, xin Hưng Đạo đại vương chỉ dạy. Tất cả anh em Tây Sơn đồng lên tiếng đáp lại.
– Hiện nay kẻ thù chung của chúng ta càng ngày càng mạnh lên mà dân tộc ta lại đang nằm trong thế lòng người ly tán. Kẻ thù đã và đang đầu độc dân chúng cả về thể chất lẫn tinh thần, làm cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta trở nên vô cùng suy nhược, như thế là dể dàng cho bọn chúng thực hiện mưu đồ xâm lược.
– Thưa Đức Thánh Trần, vậy chúng con phải làm sao đây? Tôi bạo gan hỏi
– Nhà ngươi tên họ là chi?
– Dạ con chính là Bùi Thị Xuân, nữ tướng của Tây Sơn
– Nhà ngươi là Bùi Thị Xuân à? Bỗng Đức Trần Nhân Tông cất tiếng hỏi.
– Dạ thưa ngài, là con đây. Tôi khẳng định.
– Quả nhiên là nghiệp định như vậy rồi. Đức Giác Hoàng Nhân Tông và đức thánh Trần nhìn nhau gật gù rồi đồng thanh nói
– Dạ thưa con không hiểu ý hai ngài muốn nói gì cả.
– Nhà ngươi có biết kiếp trước nữa ngươi là ai không?
– Kiếp trước nữa? Sao lạ vậy?
– Ngươi chính là Trần Quốc Toản, đứa cháu nhỏ anh hùng đã hy sinh vì nghiệp cả của chúng ta đó. Đức Thánh Trần khẳng định như vậy.
Nghe tới đó tôi vội quỳ sụp xuống cuối đầu trước hai vị, trong lòng bỗng ngẹn ngào đến mức không thể thốt lên được lời nào. Đức thánh Trần bước xuống lấy tay xoa đầu tôi rồi nâng tôi đứng dậy và nói:
– Cháu hãy đứng lên đi, anh hùng vẫn mãi anh hùng. Dù có chuyển kiếp bao nhiêu lần vẫn thế. Ngài nhẹ nhàng nói.
– Hèn chi con mới được diện kiến Huyền Trân công chúa, nhà vua và cả người nữa.
Đức thánh Trần Hưng Đạo quay qua nói với các vị Tây Sơn thất hổ tướng:
– Cuộc hội ngộ hôm nay, ta muốn các vị truyền thêm năng lượng cho Nguyên Hãn để hắn có thêm sức lực mà thực hiện nhiệm vụ thế gian. Vì kẻ thù hiện nay mạnh hơn hắn gấp nhiều lần, hắn cần thêm năng lực để đối phó. Các ngươi nghĩ sao?
– Chúng tôi xin nghe theo lời của ngài và xin được góp hết sức ạ.
Huyền Trân Công Chúa bèn mang đến một chén rượu, đức thánh Trần dùng lưỡi gươm của ngài rồi tự cắt vào tay, nhỏ máu của ngài vào trong bát rượu, sau đó ngài đưa bát rượu cho các vị tướng Tây Sơn và họ cũng làm như thế.
– Còn thiếu một người. Đức Vua Trần nói.
VUA TRẦN NHÂN TÔNG
Tức thời một luồng ánh sáng chói lòe từ trên cao vụt xuống, Quang Diệu đột nhiên xuất hiện và lấy thanh đại đao sắc bén của anh ấy cứa vào tay mình, nhỏ máu vào bát rượu. Rượu trong bát bỗng sôi lên sùng sục.
– Nào, con hãy uống hết bát rượu này và hãy luôn nhớ rằng tinh thần của hồn thiên sông núi vẫn cạnh bên và giúp đỡ con trên con đường tranh đấu. Đức Thánh Trần đưa bát rượu cho tôi và nói.
– Dạ, con xin vâng mệnh. Nói xong, tôi cầm lấy bát rượu và uống cạn một hơi.
Vừa uống xong, tôi thấy cơ thể mình nóng lên hừng hực, càng lúc càng nóng rồi bỗng hoa mắt, choáng váng và ngã xuống ngất lịm.
Nguyên Hãn, Nguyên Hãn, tôi nghe có ai đó lay mạnh vai mình nên hoàng hồn thức tỉnh. Chưa kịp nhận ra chuyện gì nên tôi hỏi nhà sư đang đứng ở cạnh giường.
– Bạch thầy, con đang ở đâu vậy thưa thầy?
– Nhà ngươi mất trí nhớ rồi sao? Ngươi đã ngủ mê man và nóng sốt suốt hai ngày liên tục không chịu tỉnh dậy, hôm nay ta lấy khăn lạnh chườm cho ngươi mới thấy ngươi thức giấc.
Sực nhớ tôi vừa uống chén rượu của đức thánh Trần Hưng Đạo nên tôi choàng dậy và chạy nhanh đến chánh điện. Bàn thờ của đức Thánh Trần bên góc phải còn nghi ngút hương thơm, tôi chợt giựt mình khi nhìn thấy chiếc bát còn rượu ai đã dâng lên đức thánh Trần còn hơi ấm. Không nói không rằng, tôi bưng chén rượu nốc một hơi một hết sạch, làm nhà sư chạy theo tôi chưng hửng lấy làm lạ nên hỏi:
– Nhà ngươi sao thế?
– Bạch Thầy, con bỗng thấy lòng yêu nước dâng lên cuồng cuộn nên uống chén rượu này cho thỏa chí tang bồng.
Nhà sư nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng chắc ngài thấy vẻ mặt hừng hực nhuệ khí của tôi nên không hỏi gì thêm nữa. Từ hôm đó trở đi, tôi bỗng nhiên thấy mình mạnh mẽ hẳn lên như một siêu nhân, nhìn những gian truân, khỗ ải như là cỏ rác.
Tiểu Sử Trần Hưng Đạo
( Trích theo WikiPedia)
Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn,con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu anh cả của Trần Thái Tông Trần Cảnh, do vậy Trần Quốc Tuấn gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có một số giả thiết đó là huý là Nguyệt, một người trong tôn thất họ Trần. Do chính thất khi trước của Trần Liễu là công chúa Thuận Thiên trở thành hoàng hậu của Trần Thái Tông, nên Thiện Đạo quốc mẫu trở thành kế phu nhân. Sau khi Trần Liễu mất (1251), theo “Trần triều thế phả hành trạng” thì bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu Hương.
Năm sinh của ông cho đến nay vẫn không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231, chung quy đều thiếu luận cứ chắc chắn và độ tin cậy. Nhưng điều đó cũng cho thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu (thành lập năm 1225).
Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa. Ông quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay.
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ.
Biến động gia đình
Năm 1237, gia đình ông đã xảy ra biến động. Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độđang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa.
Phẫn uất, Trần Liễu họp quân chống lại nhưng thế cô không làm gì được, phải xin đầu hàng. Vì Thái Tông cũng thương anh nên xin với Trần Thủ Độ tha tội cho Trần Liễu, nhưng quân lính đều bị giết. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm người tài nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc Tuấn.
Khi trưởng thành, Trần Quốc Tuấn (19 tuổi) đem lòng yêu công chúa Thiên Thành, không biết rõ gốc tích của bà, nhưng các nhà nghiên cứu phần lớn đều đồng tình với quan điểm bà là con gái trưởng của Trần Thái Tông tức là em họ của ông. Đầu năm 1251, Trần Thái Tông muốn gả công chúa cho Trung Thành vương, nên đã cho công chúa đến ở trong dinh Nhân Đạo vương (cha của Trung Thành vương). Ngày rằm tháng giêng, Trần Thái Tông mở hội lớn, ý muốn cho công chúa làm lễ kết tóc với Trung Thành vương. Trần Quốc Tuấn muốn lấy công chúa, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.
Mẹ nuôi Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà công chúa biết chuyện, sợ ông bị hại trong phủ, liền chạy đến cung điện cáo cấp, xin Trần Thái Tông cứu Trần Quốc Tuấn. Vua hỏi việc gì, Thụy Bà trả lời: “Quốc Tuấn ngông cuồng, đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo bắt giữ rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng đến chỗ Trần Thái Tông xin lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bất đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương.
Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.\
Sự nghiệp
Ba lần chống quân Nguyên Mông
Lần thứ nhất (1258)
Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ(1257), ông được giao trách nhiệm phòng thủ biên giới trước thời điểm quân Mông Cổ xâm lược vào tháng 12 năm 1257. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của Quốc Tuấn”.
Viết về cuộc chiến này, các bộ sử của hai bên như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nguyên sử, An Nam chí lược đều không đề cập chi tiết gì về vai trò của Hưng Đạo vương trong các trận đánh lớn của cuộc chiến. Các ngày 12-13 tháng 12 âm lịch năm 1257 (tức 17-18 tháng 1 năm 1258), quân Mông Cổ đánh bại quân Đại Việt do vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy ở Bình Lệ Nguyên và Phù Lỗ. Thái Tông rời bỏ kinh đô, lui về giữ sông Thiên Mạc. Quân Mông Cổ vào Thăng Long nhưng thiếu lương thực trầm trọng, phải chia nhau đi cướp lương thực và bị chặn đánh quyết liệt. Ngày 24 tháng 12 âm lịch năm 1257 (tức 28 tháng 1 năm 1258), vua Trần Thái Tông cùng thái tử 18 tuổi Trần Hoảng ngự lâu thuyền tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ, giải phóng Thăng Long. Chiến tranh kết thúc, Quốc Tuấn vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả”. Sau chiến thắng quân Mông Cổ, vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Thánh Tông phong em là Trần Quang Khải là Thái úy, tước Đại vương.
Lần thứ hai (1285)
Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt. Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành….
Đầu năm 1277, Trần Thánh Tôngthân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Trần Quang Khải đi theo, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:
“Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”.
Khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau. Sau đó, Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước. Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”. Trần Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng tốt.
Đầu năm 1281, vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt sai Sài Thung đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sài Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu… Vua (Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông…”
Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việtvới nhà Nguyên đến gần. Tháng Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân. Ông chọn các quân hiệu tài giỏi, cho chia nhau chỉ huy các đơn vị quân đội. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ Bình Than và các nơi hiểm yếu khác.
Tháng 7 âm lịch năm 1284, nhà Nguyên sai Trấn Năm vương Thoát Hoan, A Lý Hải Nha tập trung 50 vạn quân ở hành tỉnh Hồ Quảng, dự đinh sang năm xâm lược Đại Việt. Tháng 11 âm lịch năm 1284, Trần Nhân Tông sai Trần Phủ sang hành tỉnh Hồ Quảng (Đại Nguyên) xin hoãn binh. Khi trở về, Trần Phủ báo tin Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan, A Lý Hải Nha lấy danh nghĩa mượn đường đánh Chiêm Thành, mang đại quân tiến vào đất Việt. Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Hưng Đạo vương đốc các quân đánh chặn ở biên giới nhưng thất bại, quân Đại Việt bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Đại Việt đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng. Sử chép rằng:
“Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượng và Yết Kiêu, đối xử rất hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân, Dã Tượng thì đi theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả. Hưng Đạo Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:
“Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền”.
Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó. Vương mừng lắm, nói:
“Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi”.Nói xong cho chèo thuyền đi, Kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc Giang.”
Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Đại Việt rút lui. Toàn bộ quân Đại Việt rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân.
Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Thượng hoàng Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”.
Sau trận quân Đại Việt phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ (do sự phản bội của Trần Kiện), đại quân Việt chỉ lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông rút về vùng bờ biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay, là nơi mà quân Nguyên chưa vươn tới. Trong hành trình rút lui, quân Đại Việt bị quân Nguyên đuổi gấp. Trước thế quân Nguyên Mông bức bách, ông đưa hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninhngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn địch. Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, lại còn mối hiềm cũ của Trần Liễu, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, bởi vậy hai vua Trần và mọi người khỏi nghi ngại.
Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285, Trần Hưng Đạo lại đưa 2 vua Trần cùng đại quân vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp của đối phương. Hàng loạt tông thất nhà Trần ra hàng quân Nguyên như hoàng tử Trần Ích Tắc, các hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiện.
Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, các cánh quân Đại Việt do Trần Hưng Đạo cùng Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật chỉ huy thắng lợi ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,… quân dân Đại Việt đã tiến vào Thăng Long, Thoát Hoan bỏ chạy. Trần Hưng Đạo và anh là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên đại bại rút chạy về phía Bắc.. Quân Đại Việt do con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy truy kích đến tận biên giới, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống đồng để chạy trốn. Trong cuộc chiến này, quân Đại Việt giết được tướng Nguyên là Toa Đô và Lý Hằng.
Lần thứ ba (cuối năm 1287)
Tháng 3 âm lịch năm 1286, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt sai Thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích (Auruyvci), Bình chương sự Ô Mã Nhi (Omar) huy động 50 vạn quân, rồi sai hành tỉnh Hồ Quảng đóng 300 thuyền chiến, định đến tháng 8 hội quân ở Khâm Châu, Liêm Châu. Hốt Tất Liệt còn sai quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây chuẩn bị đánh Đại Việt, mượn danh nghĩa đưa phản thần nhà Trần là Trần Ích Tắc về làm An Nam Quốc vương. Tháng 6 âm lịch, vua Trần Nhân Tông xuống chiếu cho vương hầu, tôn thất chiêu mộ binh sĩ. Nhà vua hỏi Hưng Đạo vương:
“Thế giặc năm nay thế nào?”.
Trần Quốc Tuấn trả lời:
“Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn.”
Vua Trần Nhân Tông cử Hưng Đạo vương thống lĩnh vương hầu luyện tập binh sĩ, sửa sang khí giới, đóng thuyền chiến. Tháng 2 âm lịch năm 1287, nhà Nguyên điều động quân Mông Cổ, quân Hán Nam (người Hán ở miền Nam Trung Quốc), quân 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, quân Vân Nam, quân người Lê ở 4 châu ngoài biển, chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt. Vạn hộ Trương Văn Hổ dẫn quân thủy chở 70 vạn thạch lương theo sau. Hốt Tất Liệt còn lập Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh do Bình chương sự Áo Lỗ Xích, các Tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đứng đầu; cơ quan này phải chịu sự sai khiến của Thoát Hoan. Các quan Đại Việt xin bắt tráng đinh sung quân để quân đội đông hơn, nhưng Hưng Đạo Vương không đồng ý.
Ngày 14 tháng 11 âm lịch 1287, Trịnh Xiển báo tin cánh quân Vân Nam của Nguyên đánh ải Phú Lương. Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương: “Năm nay đánh giặc thế nào?”. Ông vẫn quả quyết: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Lần này biết nhà Trần đã phòng bị ở Thanh – Nghệ, Thoát Hoan tiến thẳng vào từ phía bắc và đông bắc. Sau những cuộc đụng độ bất lợi ở biên giới, quân Đại Việt rút lui. Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Đại Việt nấp trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Đại Việt thường ẩn nấp khó phát hiện ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút lui.
Trong khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư chặn đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do bị thiếu lương và bệnh dịch, Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288), bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến “quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần”.
Trận Bạch Đằng
Đây là trận đánh nổi bật nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ ba, mang tính chất khẳng định cũng là lần cuối cùng quân Nguyên – Mông xâm lược Đại Việt.
Thuỷ quân Nguyên vốn không biết về chu trình thuỷ triều của sông. Trước ngày diễn ra trận đánh quyết định này, ông đã đoán tuyến đường tháo chạy của địch và nhanh chóng cho quân cắm cọc gỗ vót nhọn ở đáy sông, tạo thành thế trận cọc ngầm độc đáo giống như hồi thời Ngô Quyền, Lê Hoàn. Khi Ô Mã Nhi cho quân vào sông, nước còn lên cao che hết cọc gỗ, Hưng Đạo vương cử các tàu nhỏ ra đánh rồi giả vờ thua chạy. Quân Đại Việt vừa rút lui, vừa đánh trả. Khi nước xuống, toàn bộ thủy quân Nguyên bị mắc kẹt. Ngay lập tức, Hưng Đạo vương sai tướng Nguyễn Khoái tung quân Thánh dực đánh lớn, phá tan quân Nguyên. Thượng hoàng Thánh Tông, vua Nhân Tông cũng đưa đại quân tiếp chiến, quân Nguyên bị giết tại trận nhiều vô kể, theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: “nước sông do vậy đỏ ngầu cả”. Cuối cùng, 400 thuyền Mông-Nguyên bị đốt cháy hết. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt 2 tướng Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc dâng Trần Thánh Tông.
Lui về Vạn Kiếp(1289)
Do đã có những công lao to lớn trên con đường vệ quốc, gìn giữ độc lập, Vua đã trao cho ông vị trí tối cao toàn quyền chỉ huy quân đội toàn quốc, đồng thời cho phép ông phong tước, hiệu cho bất kỳ ai mà ông muốn. Nhưng trong suốt cuộc đời, ông không hề sử dụng đặc quyền này.
Tháng Tư (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1289), luận công ba lần đánh đuổi quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được phong ấp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví ông với Thượng phụ (tức Khương Tử Nha).
Qua đời
Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Ông trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.
Chữa mãi không khỏi bệnh, ông mất vì tuổi già vào ngày 20 tháng Tám (âm lịch) năm ấy.
Khi sắp mất, Trần Hưng Đạo vương dặn các con rằng: “Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục”
Nghe tin Trần Hưng Đạo vương mất, triều đình Đại Việt phong tặng ông là “Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương”. Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là “Đức Thánh Trần” và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.
Nhân cách, phẩm chất
Gạt bỏ hiềm khích riêng
Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vuaTrần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống làm Công chúa. Phẫn uất, Trần Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo). Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăn trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăn trối để dò ý hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”…Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.
Dù cha ông có hiềm khích lớn với nhà Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo luôn đặt việc nước lên trên, một lòng trung thành, hết lòng phò tá các vua Trần đánh ngoại xâm cứu nước. Đối với lời dặn của Trần Liễu trước khi mất, Trần Quốc Tuấn từng vờ hỏi các con. Ông hỏi Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn: “Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ vương thưa: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!”. Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”. Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra” và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Hưng Vũ vương Nghiễn được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì “sợ phật ý Quốc Tuấn”. Tuy nhiên khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy “giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư” khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người được ông chọn để viết bài Tựa cho sách.
Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôi.
Trần Hưng Đạo khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự.
Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi…
Tác phẩm
- Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng, quen gọi là Hịch tướng sĩ).
- Binh gia diệu lý yếu lược (Tóm lược chỗ cốt yếu trong nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược)
- Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp) nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư (quyển VI) ghi lại.
Ghi nhận công lao
Dưới sự lãnh đạo của các vua Trần và Hưng Đạo vương, quân đội Đại Việt đã vượt qua nhiều gian nan, chỉ với số đội quân ít thiện chiến, yếu hơn so với đối phương lại hai lần đánh tan hàng vạn quân Mông Nguyên hùng mạnh, giành thắng lợi mà “tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”. Chiến lược của ông đã góp phần rất lớn đến thắng lợi này nên chiến công vĩ đại này thường gắn liền với tên tuổi của ông. Công lao to lớn này đã đưa ông lên hàng “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần”, một bậc thầy về chiến lược thực sự. Chiến thắng của ông và quân dân nước Việt đã góp phần đánh dấu chấm hết thời kỳ đỉnh cao của quân Nguyên – Mông trong lịch sử.
Là một người có tài dụng người, dụng binh thao lược, ông tiến cử người tài giỏi giúp nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông đã có công đánh dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn người trung nghĩa nên đã giữ được những nhân tài chung quanh ông. Ví dụ như khi vua Trần Thánh Tông vờ bảo với Trần Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng giặc”. Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông và tôn ông là vị anh hùng dân tộc có công trạng lớn vào hàng bậc nhất đối với tổ quốc và là tấm gương uy vũ sáng ngời cho nhiều thế hệ mai sau.
Là một Tiết chế đầy tài năng, khi “dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái”. Ông nổi tiếng với chiến lược “tấn công và rút lui”. Ngoài ra, ông còn đặc biệt có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch “thanh dã” (vườn không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối với cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng…đã làm cho tên tuổi ông bất tử.
Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên trước khi mất, ông vẫn còn dặn vua Trần Anh Tông rằng: “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà.
Câu nói nổi tiếng:
“Bệ hạ chém đầu thần rồi hãy hàng”— Trả lời Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trong cuộc kháng chiến lần 2
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xẻ thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng.”— Hịch tướng sĩ
“Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. (Nên) khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.”— Trả lời Trần Anh Tông về quốc sách giữ nước trước khi mất
TIỂU SỬ TRẦN QUỐC TOẢN
( Trích theo WikiPedia)
Trần Quốc Toản hay Hoài Văn hầu hoặc Hoài Văn vương, là một tông thất nhà Trần, sống ở thời kỳ trị vì của Trần Nhân Tông.
Ông nổi tiếng có công tham gia kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và cái chết anh dũng vang danh một thời. Sự tích về ông được đánh giá là hiển hách, thể hiện sự dũng mãnh và kiên định của một người trẻ tuổi trước sự ngoại xâm.
Câu chuyện của ông cũng được lưu truyền trong văn hóa Việt Nam hiện đại với hình ảnh Lá cờ thêu sáu chữ vàng, dựa vào điển tích ông tự thêu 6 chữ “Phá cường địch, báo hoàng ân” để trang bị cho quân đội của mình.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, hay An Nam chí lược đều không hề ghi chép về xuất thân của Trần Quốc Toản. Tuy nhiên, theo tài liệu nghiên cứu gần đây mà không rõ nội dung cũng như kiểm chứng, Trần Quốc Toản là con của Vũ Uy vương Trần Nhật Duy và bà Trần Ý Ninh.
Nếu nghiên cứu này đáng tin và chính xác, thì Trần Quốc Toản là cháu nội của Trần Thái Tông, là cháu gọi Trần Thánh Tông bằng bác và là em họ của Trần Nhân Tông.
Hành trạng
Tháng 10 năm 1282, vua Trần Nhân Tông mở hội nghị Bình Than, cùng vương hầu, trăm quan bàn kế chống quân Nguyên. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua thấy Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và người nhà thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ:”Phá cường địch, báo hoàng ân” ( phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám chống lại.
Tháng 4 năm 1285, Trần Nhân Tông sai Chiêu Thành vương (khuyết danh), Hoài Văn hầu Quốc Toản cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết.
Ngày 10 tháng 5 năm đó, có người về báo cho Lưỡng Cung là Thượng tướng Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn… Thoát Hoan, Bình chương A Lạt phải rút chạy qua sông Lô.
Trong các sử sách của Việt Nam như Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Việt sử tiêu án và các quyển sử soạn gần đây như Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trần Hưng Đạo của Hoàng Thúc Trâm đều không thấy đề cập đến cái chết của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ quyển V có viết: “… Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước Vương”.
Nhưng các quyển sử của nhà Nguyên lại có đề cập đến cái chết của ông. Phần An Nam truyện của Nguyên sử, tờ 8a10 có ghi: “Quan quân đến sông Như Nguyệt, thì Nhật Huyên sai Hoài Nhân vương đến đánh..”. Phần Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại, 41 tờ 27b 1-2 có viết:”… Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Nhân vương đến đuổi thì bị giết”. Hoài Nhân vương là anh họ (con vua Trần Thánh Tông) của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản.
Theo sách Việt sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh, khi Ô Mã Nhi đánh vào Vân Đồn để cướp lại lương thực thì quân của Trần Quốc Toản và Trần Khánh Dư chống đỡ kịch liệt. Quốc Toản đánh thắng, bắt được Ô Mã Nhi.
Hết chiến tranh, Trần Quốc Toản theo vợ là công chúa Ngọc Hoa di thần Tống triều dẫn quân Tống lưu vong về Trung Quốc kháng chiến chống nhà Nguyên và mất bên Trung Quốc.