TÂM HỒN CAO THƯỢNG (Tiếp theo 10)

TÂM HỒN CAO THƯỢNG (nguyên tác Les grands coeurs)

Tác giả: EDMOND DE AMICIS

Dịch giả: HÀ MAI ANH

33.- Chú hề con

Thứ hai, ngày 20,

Hội giả trang gần mãn, thành phố rất tưng bừng rộn rịp. Trên những khu đất công, chỗ nào cũng thấy dựng những rạp xiếc rong và những vòng đua ngựa gỗ. Ngay cửa sổ nhà tôi trông ra, có một rạp xiếc của người Vêneua. Họ có 6 con ngựa. Rạp dựng giữa bãi, một góc để ba xe ngựa lớn là nơi các tài tử ngủ hay đóng bộ để ra trò và ba cái nhà lăn, hai bên có cửa sổ, trên nóc có ống hơi lúc nào cũng nhả khói xanh. Nhìn qua cửa sổ thấy phơi la liệt những quần áo của trẻ con vắt trên dây. Một người đàn bà vừa nuôi con thơ, vừa làm bếp, vừa nhảy dây. Thực là một khổ cảnh đáng thương ! “Trò rong” ! Người ta thường nói hai tiếng ấy bằng giọng khinh bỉ. Nhưng thực ra họ đã kiếm ăn một cách thật thà, họ đã chịu mọi sự lao khổ để làm vui cho kẻ khác. Trời rét thế, suốt ngày họ chạy từ rạp về xe và chỉ vận phong phanh một chiếc áo đan màu hồng . Họ ăn đứng trong những giờ nghỉ, ít khi được ngồi và ăn uống thung dung. Đôi khi rạp đã đầy người, bão nổi, lều bay, đèn tắt, thế là buổi diễn đi đời.

Phường xiếc này có hai đứa trẻ giúp việc. Đứa bé nhất là con của chủ rạp, độ 8 tuổi, coi rất đẹp trai , mặt tròn, da xạm, mớ tóc đen toả xuống dưới vành mũ nhọn. Lúc ra trò, hắn vận một thứ bao màu xanh, hai tay viền đen, chân đi giày vải coi rất ngộ. Hắn có biệt tài đi ngựa ! Hôm nào cũng thế, sáng sớm chúng tôi đã thấy nó đầu trùm khăn vuông đi mua sữa về và dắt ngựa ở chuồng ra. Xong, nó bế em đi chơi, hoặc xếp dọn vòng, dây, ghế, bức chắn, hoặc rửa xe, nhóm bếp; trừ một vài phút nghỉ ngơi, còn bao giờ nó cũng ngồi bên cạnh mẹ. Một tối kia, chúng tôi sang xem xiếc. Trời rét quá ! Rạp vắng tanh. Chú hề bé con vẫn hết sức trổ tài để cho nhúm khán giả kia khỏi chán nản. Chú nhảy lộn trên lưng ngựa, bám đuôi ngựa chạy, đứng bằng hai tay, chân ngược lên trời. Rồi chú hát, chú cười. Bộ mặt xạm nâu của chú đã đoạt được lòng yêu của công chúng. Cha chú thì mặc áo đỏ, quần cụt trắng, đi giày ống, tay cầm roi ra lệnh, nét mặt buồn thiu. Thấy tình cảnh ấy, cha tôi động mối thương tâm. Hôm sau, có hoạ sĩ Đêlix lại chơi, cha tôi nói chuyện:

  • Những người ấy làm được lấy chết mà kiếm chẳng được mấy đồng tiền ! Thương hại thay thằng bé con kháu và ngoan quá ! Ta có thể giúp đỡ họ được việc gì không?

Hoạ sĩ ngỏ một ý kiến rất hay:

  • Bác là nhà báo, viết cho họ một câu trong tờ “Tân văn”. Bác kể lại những đức tính tốt và tài nghệ của đứa bé. Còn tôi, tôi sẽ vẽ hình nó ở đây, ai ai cũng đọc báo “Tân văn” , chắc sẽ được đông người đến xem.

Nói xong, thi hành ngay. Cha tôi đăng một bài rất hứng thú, nhắc lại những điều chúng tôi đã thấy qua cửa sổ, khiến ai nghe cũng muốn vuốt ve cậu tài tử bé con. Ông Đêlix phác hoạ hình cậu bé rất giống và có duyên. Báo lên khuôn ngay chiều thử bảy. Thế rồi, buổi biểu diễn tối chủ nhật, công chúng kéo nhau đi xem đông như nước chảy. Người ta nêu trong báo là “Cuộc diễn làm phúc cho chú hề tí hon!”. Cha tôi đưa tôi vào ngồi hạng nhất. Tờ “Tân văn” in hình cậu bé dán ngay ở cửa vào. Rạp đầy người, nhiều khán giả tay cầm tờ báo, chỉ cho nhau đâu là cậu tài tử; còn cậu bé thì hết chạy đến chỗ người này, lại chạy sang ghế người khác, hớn hở vô cùng ! Ông chủ rạp hôm nay trông cũng “tươi” lắm, vì ông không ngờ được có cái vinh hạnh ấy và từ ngày đi diễn trò đến giờ, chưa từng có báo nào nhắc đến phường ông cả.

Cha tôi ngồi cạnh tôi. Trong hàng khán giả tôi nhận thấy nhiều người quen. Cuộc diễn bắt đầu. Chú hề đi ngựa, lộn đu và leo dây, tuyệt hay! Hết mỗi trò lại một tràng pháo tay nổ khắp rạp. Còn nhiều trò khác như leo dây, múa rối, đi cầu, đánh vòng, nhưng trò nào không có cậu bé là công chúng buồn. Lúc gần tan tôi thấy ở cửa vào có người nói thầm với chủ rạp. Chủ rạp trông vào cử toạ như muốn tìm ai. Bỗng ông ta để ý đến chúng tôi. Cha tôi hiểu ngay là họ đã tìm ra ký giả bài báo hôm trước. Muốn miễn mọi sự cảm ơn, cha tôi khẽ bảo tôi:

  • Enricô ơi ! Con ngồi xem cho hết. Ta đợi con ở cổng. Rồi lén ra trước. Chú hề sau khi nói chuyện với cha lại chạy vào làm trò. Đứng trên mình ngựa đang phi, cậu thay đổi quần áo bốn bận và lần lượt hiện ra: người du lịch, lính thuỷ, lính tập, người múa võ ! Mỗi vòng đi qua cậu lại liếc mắt nhìn tôi. Khi diễn xong, cậu xuống ngựa, ngửa mũ đi quanh vòng diễn. Ai nấy đều ném xu ,ném kẹo cho cậu. Tôi cầm sẵn hai xu đợi, song khi đến chỗ tôi, cậu bỏ qua và giơ mũ cho người khác. Tôi bực quá ! Sao hắn lại có cái cử chỉ vô lễ thế ! Mãn trò, chủ rạp thiết tha cám ơn khán giả. Công chúng kéo ra. Tôi bị ép trong bọn, đang tìm lối ra, bỗng thấy có người kéo tay tôi. Tôi quay lại thì ra cậu hề, nét mặt tươi cười, tay cầm nắm kẹo. Tôi hiểu ý ngay. Cậu bé nói:
  • Cậu cầm lấy nắm kẹo của thằng hề ăn cho vui. Tôi không từ chối và cầm ba, bốn chiếc. Cậu bé nói tiếp:
  • Cậu nhận cả cái hôn này nữa! Tôi giơ má đáp:
  • Cho tôi hai cái ! Cậu liền quệt tay trái lên mặt đầy phấn xong ôm cổ tôi hôn hai cái thật kêu và nói:
  • Em gửi cậu một cái về cho ông !

34.- Ngày cuối cùng hội Giả trang

Thứ ba, ngày 22,

Hôm nay lúc xe “trá hình” đi qua chúng tôi đã mục kích một tấn kịch buồn, nhưng kết cục được vô sự. Nếu không, đã xảy ra một tai hoạ. Nơi công trường “Thánh Thượng Tư” hôm nay trang hoàng rất rực rỡ, hai bên chật ních những người đợi xem đám rước đi qua. Nửa giờ sau, bỗng tiếng hò reo vang động một góc trời, người ta thấy một đoàn mặt nạ kéo đến, vừa đi vừa làm trò, coi rất ngộ nghĩnh, và không thể nhịn cười được.

Kế đến những xe trá hình: xe nào cũng cắm cờ kết hoa và mỗi cái kết một hình: nào cối xay, tàu thuỷ, nào rạp hát, nhà lầu v.v.. Trên xe chứa nào hề, nào đầu bếp, nào lính thuỷ, nào kẻ chăn cừu. Thực là một cảnh tượng hỗn tạp làm rối mắt mọi người ! Rồi thì kèn thổi, tù và rúc, thanh la khua , như xé màng tai. Các ông tài tử trên xe uống rượu, hát nghêu. Lắm lúc hết trò, các ông quay ra thét mắng những người xem và những kẻ tò mò ở trong cửa sổ ló đầu ra. Bị chọc tức họ nhao nhao cãi lại. Đồng thời một trận mưa hoa và kẹo do người ta ném lẫn nhau, bay phơi phới, đám rước còn dài, xa trông chỉ thấy cờ bay phất phới, lông mũ lung lay và những đầu người lắc lư dưới những cái mũ nhọn khổng lồ. Người ta có thể nói rằng: Đó là một đội người điên ! Đoàn xe đang diễu, tôi nhận thấy chiếc xe tứ mã rất tráng lệ, lưng ngựa phủ vải thêu kim tuyến và trưng những tràng hoa rất rực rỡ. Trên xe có 14, 15 người trá hình ngày xưa: đầu đội mũ tam giác, tóc giả chấm vai, mình mặc áo thêu, chỉ vàng lóng lánh, vai dính băng thuỷ ba, sườn đeo gươm sáng nhoáng. Họ đồng thanh hát một bài tiếng Pháp và ném kẹo cho công chúng; ai nấy đều vỗ tay hoan nghênh. Chợt thấy bên tay trái chúng tôi có một ngƣời đàn ông giơ một đứa con gái 4,5 tuổi lên trời và chạy theo xe của các vị công hầu của vua Lui thứ 15. Con bé gào khóc giẫy giụa. Một vị quý phái quay lại nhìn. Ngừơi đàn ông nói:

  • Xin ngài làm phúc giữ lấy đứa bé này, nó lạc, không tìm thấy mẹ. Ngài ẵm nó trong tay, mẹ nó ở xa sẽ nhìn thấy. Không còn kế gì hơn nữa. Vị quý phái liền bế lấy đứa bé ,các ông bạn đồng hành thôi không gào hát nữa. Đứa bé khiếp quá, giãy đành đạch. Vị quý phái liền rứt bỏ mặt nạ ra và cho xe đi thong thả. Trong lúc ấy có một người đàn bà ở đầu phố chạy điên cuồng, rối rít, miệng kêu:
  • Con ơi ! Con ơi ! Con tôi lạc rồi ! Người ta bắt con tôi rồi ! Người ta xéo chết con tôi rồi ! Bà kêu gào như thế đã hơn một khắc đồng hồ mà vẫn không tìm thấy con.

Bỗng trên xe có tiếng nói to:

  • Các ông, các bà tìm hộ xem mẹ nó ở đâu? Nghe tiếng, bà ta chạy sầm lại, kêu lên một tiếng vừa mừng, vừa bực và giơ hai tay run lẩy bẩy chực vồ lấy con. Xe dừng. Vị quí phái nói:
  • Con bà đây! Nói xong, vị quý phái hôn đứa bé và trao cho mẹ nó. Bà ta ôm chặt con vào lòng, mừng mừng tủi tủi… Vị quí phái kéo tay cô bé lại, rút chiếc nhẫn kim cương của mình đeo vào ngón tay tí hon cô bé và nói:
  • Của hồi môn em bé đây ! Bà mẹ sững người trong khi công chúng vỗ tay khen. Vị quí phái lại đeo mặt nạ vào, các bạn trên xe lại hát một bài bằng tiếng Pháp , chiếc xe tứ mã lại chuyển bánh trong đám công chúng hoan hô liên tục.

35.- Những trẻ em mù

Thứ năm, ngày 24,

Thầy giáo chúng tôi mệt, nên cụ giáo lớp bốn xuống dạy thay. Cụ đã dạy qua trường trẻ con mù. Cụ là bậc kỳ cựu nhất trong giáo giới ở đây, tóc trắng như bông. Cụ nói giỏi và biết nhiều. Thoạt vào lớp, cụ trông thấy một cậu học trò một mắt phải đắp bông. Cụ liền lại gần hỏi thăm và khuyên rằng:

  • Con phải cẩn thận về đôi mắt lắm mới được!

Nhân dịp, Đêrôtxi hỏi cụ:

  • Thưa cụ, có phải trước cụ đã dạy ở trường trẻ con mù không?

Cụ đáp:

  • Phải, ta dạy đấy đến 5,6 năm.

Đêrôtxi nói khẽ:

  • Thưa cụ, cụ cho chúng con nghe qua chuyện trường ấy. Cụ vào bàn giấy ngồi. Côretti mau miệng nói:
  • Thưa cụ, “trẻ mù”, con biết rồi! Trường “trẻ mù” ở phố Nixơ ạ!

Cụ nói:

  • Các con nói tiếng “mù” bằng giọng rẻ rúng cũng như các con nói đến những tiếng “ốm đau” hay “nghèo khó”. Các con có hiểu rõ “mù” là thế nào không? “Mù” nghĩa là suốt đời không nhìn thấy gì! Suốt đời không phân biệt ngày đêm không nhìn thấy vũ trụ, thấy mặt trời, thấy cha mẹ, thấy cảnh vật ở chung quanh mình và những đồ vật mình cầm đến! Suốt đời phải chìm đắm trong cõi tối tăm vô tận, khác nào như bị vùi sâu trong ruột quả đất! Các con thử nhắm mắt lại và tưởng tượng nếu các con bị như thế trọn đời thì nỗi đau khổ của các con sẽ đến mực nào? Ta quả quyết rằng các con sẽ cảm thấy một sự áp bức đau đớn, một sự khủng bố không chịu đựng được. Các con sẽ phải phát ra những tiếng kêu tuyệt vọng… Thế nhưng…khi người ta bước chân vào trường “kẻ mù” lần thứ nhất, trong lúc giờ chơi, khi người ta nghe tiếng cười câu nói ồn ào, trông thấy kẻ lên gác, người xuống thang, kẻ qua hành lang, người vào phòng ngủ một cách tự nhiên và vững vàng thì không ai bảo đó là những kẻ không nhìn thấy ánh nắng mặt trời! Muốn hiểu họ một cách tường tận hơn, ta phải để tâm xét họ về mọi phương diện. Đây là những kẻ thanh niên chừng 16, 18 tuổi khoẻ mạnh và mau mắn, họ đã cam chịu mệnh trời và tỏ vẻ dửng dưng, nhưng coi nét buồn trên mặt họ; ta có thể đoán trước khi ngậm đau, họ đã phải vật lộn với sự khổ thống thiết là dường nào? Đây là những người hiền lành, sắc mặt xanh xao lộ vẻ nhẫn nhục âu sầu, khiến ta có thể tưởng tượng rằng đôi phen họ đã âm thầm rỏ lệ. Các con ơi ! Các con nên biết rằng một phần đông trong những ngƣời xấu số ấy đã hỏng mắt trong một thời gian rất ngắn, cũng có ngƣời phải đeo bệnh lâu năm và chịu những giờ mổ cắt rất đau đớn rồi mới mù. Đây là những người lọt lòng ra đã phải sa vào một cái đêm không bao giờ có buổi bình minh. Họ ra đời như là bước vào một cõi âm ti thăm thẳm mà ở đó họ không phân biệt được một hình, một sắc gì. Các con thử tưởng tượng nếu họ so sánh đời tối đen của họ với đời của những người sáng thì họ khổ tâm đến thế nào! Chắc họ phải nghĩ rằng:
  • Tại sao lại có sự chênh lệch ấy? Chúng ta có làm gì nên tội?

Cụ giáo nói tiếp:

  • Ta, ta đã ở lâu bên trẻ mù. Ta nghĩ đến một lớp toàn những con mắt nhắm và con người chết, rồi ta lại nhìn các con, ai nấy đều có đôi mắt long lanh như ngọc, lòng ta không thể im lặng, không bảo các con rằng: “Các con toàn là những người sung sướng!” “Các con hãy nghĩ đến: riêng một nước italia ta có tới hai vạn sau nghìn người mù. Hai vạn sáu nghìn! Các con đã nghe rõ chưa ?” Cụ giáo nói dứt lời. Đêrôtxi đứng lên hỏi:
  • Thưa cụ, có phải người mù có cái xúc giác linh lợi hơn người sáng không?

Cụ đáp:

  • Phải đấy, tất cả những giác quan khác của người mù đều linh mẫn cả vì những giác quan ấy đã được rèn luyện hơn người thường để thay cho thị giác. Sáng dậy, một học sinh trong buồng ngủ hỏi bạn: – Hôm nay trời có nắng không? Một người hoạt bát nhất trong bọn họ vận áo, ra giữa sân giơ tay khua khí trời xem có ấm không, xong chạy vào báo tin: – Trời nắng. Nghe tiếng nói của một người, họ có thể đoán được tầm vóc của người ấy. Ta xét đoán những người chung quanh bằng luồng mắt của họ, những người mù lại xét đoàn theo tiếng nói. Họ nhớ giọng nói của người quen hàng bao nhiều năm không quên. Trong phòng nếu có đông người, họ biết ngay, dù chỉ có một người nói còn những người khác ngồi im. Họ chỉ lấy tay sờ mà biết một chiếc thìa có sạch hay không? Những trẻ gái lại có tài phân biệt thứ len nhuộm với thứ len không. Khi xếp hàng đôi đi trong phố, những trẻ mù chỉ ngửi mà biết gần khắp các cửa hàng. Chúng cũng chơi đánh quay, nhờ tiếng vù vù, chúng biết của ai hơn kém và nhặt con quay của mình không sai. Chúng cũng nhảy dây và nhảy cũng khéo như những trẻ sáng. Chúng hái hoa đồng thảo như người trông thấy. Chúng may áo, dệt chiếu, đan thúng rất nhanh. Xúc giác là thị giác thứ hai của chúng, vì thế khi chúng được sờ, được nắn và đoán hình thể của các đồ vật thì chúng lấy làm thích lắm.

Anh Garôphi giơ tay lên xin phép hỏi:

  • Thưa cụ, có phải người mù học tính nhanh hơn người sáng không?

Cụ đáp:

  • Phải đấy, không những học tính, những trẻ mù còn học đọc nữa. Sách của chúng có những chữ nổi, chỉ đưa qua mấy ngón tay lên mặt chữ là chúng nhận được và đọc rất nhanh. Chúng cũng tập viết nữa. Chúng dùng những cái dùi thép nhấn trên những tờ giấy dầy thành những nét chấm trũng. Những điểm ấy học theo bản tự mẫu riêng. Nhưng chấm trũng ấy nổi sang mặt giấy bên kia thành chữ. Học trò viết xong chỉ phải lật trang giấy lấy tay sờ lên là đọc được những chữ đã viết. Chúng có thể sờ chữ mà nhận được tự dạng của nhau. Chúng cũng làm bài thi và viết thư cho nhau. Chúng viết chữ số và làm tính theo lối nói trên, nhưng về khoa tính nhẩm thì chúng mẫn tiệp một cách lạ thường, ta không thể tưởng tượng được, đó cũng là vì chúng không đãng trí bởi những sự vật quanh mình như ta. Không những thế, chúng lại còn thính tai nữa. Bốn năm người ngồi một ghế, không cần phải quay sang nhau, người thứ nhất có thể nói chuyện với người thứ ba, người thứ nhì nói với người thứ tư, bốn người đều nói cùng lúc và nói to cả, thế mà chúng nghe được không sót một câu nào. Chúng chăm lo về các bài thi hơn các con và chúng yêu quí thầy giáo hơn các con nhiều. Chỉ nghe tiếng giày hay ngửi hơi là chúng nhận được các thầy giáo. Chỉ nghe giọng nói là chúng đoán được thầy vui hay buồn, khoẻ hay ốm. Được thầy vuốt ve hoặc vỗ về thì chúng sung sướng lắm. Nhiều khi chúng nắm chặt lấy tay và cánh tay thầy để tỏ dấu biết ơn. Những học trò mù thường yêu nhau lắm và ở với nhau rất trung thành vì tình hữu ái đã đem lại cho chúng bao nhiều mối an ủi và xẻ bớt cho chúng bao nhiêu nỗi buồn.
  • Anh Vôtini hỏi:
  • Thưa cụ, những học trò mù chơi âm nhạc có khá không?

Cụ đáp:

  • Chúng mê âm nhạc lắm. Âm nhạc có thế ví như bản mệnh và hạnh phúc của chúng. Những trẻ mù mới vào trường không bao giờ chán nghe người khác đánh đàn hay thổi sáo. Chúng học chóng lắm và đem hết tâm hồn vào nhạc nghệ. A ! Giá mà các con nghe thấy tiếng đàn của trẻ mù, giá mà các con được trông thấy chúng mặt ngẩng, miệng cười đầy vẻ cảm đồng và khát khao, lắng nghe bạn đang rọi một tia sáng trong cõi tối tăm vô tận mà chúng phải đầy đoạ vào, lúc ấy con sẽ hiểu âm nhạc đối với chúng là một mối an ủi rất nhiệm mầu. Cấm chúng đọc sách hay cấm chúng chơi âm nhạc là một sự phạt rất nặng. Chúng sẽ đau đớn vô cùng, vì thế không ai có cái can đảm phạt chúng như thế. Tóm lại âm nhạc đối với con tim chúng cũng như ánh sáng đối với con mắt ta.

Đêrôtxi nói tiếp:

  • Thưa cụ, người ngoài có thể vào xem trường trẻ mù được không?

Cụ đáp:

  • Sao lại không ? Hiện giờ các con còn bé, ta không muốn cho các con đi. Nhưng một mai, các con đến tuổi hiểu được nỗi thống khổ của kẻ mù, đến tuổi biết động lòng trắc ẩn vì mối thương tâm chính đáng, lúc đó các con sẽ nên đi. Các con ơi! Thực là một cảnh tưởng bi ai ! Các con hãy trông kia là những trẻ ngồi trong cửa sổ nửa khép, nét mặt an tĩnh, thở hít khí lành, hình như chúng đang nhìn ra khoảng đồng ruộng non xanh mà ta ai nấy đều nom rõ… Nhưng khi ta nghĩ đến chúng không trông thấy và không bao giờ được trông thấy những phong cảnh ngoạn mục kia thì lòng ta se lại, khi ấy tựa hồ như ta là một kẻ đui mù! Kẻ nào sinh ra mù sẵn thì nỗi khổ cũng giảm được đôi chút vì nó không biết những thứ nó thiếu thốn. Nhưng về phần những trẻ mới mù vài tháng nay, chúng còn ghi nhớ và hiểu những thứ mà chúng đã mất. Những trẻ này còn đau đớn gấp trăm lần hơn những trẻ nói trên, là vì mỗi ngày chúng thấy hình ảnh của những người thân yêu mờ dần trong trí óc. Một trẻ em, một lần đã thốt ra một câu ai nghe thấy cũng phải cảm động. –  Lạy trời cho tôi được mở mắt một phút thôi, để tôi nhận lại mặt mẹ tôi mà tôi quên mất rồi ! Đã bao nhiêu người vào thăm trường này, lúc ra phải lau nước mắt. Khi từ biệt chúng, ta tưởng tạo hoá đã biệt đãi ta vì ta được hưởng cái đặc ân là được nhìn thấy mọi người, nhìn thấy nhà cửa, nhìn thấy trời đất! Hãy thương những trẻ mù. Các con ơi ! Hãy thương chúng là kẻ có mặt trời mà không được nhìn ánh sáng, có mẹ mà không rõ nét mặt mẹ mình!

<<<Trở về

Đọc Tiếp>>>

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.