TÂM HỒN CAO THƯỢNG (nguyên tác Les grands coeurs)
Tác giả: EDMOND DE AMICIS
Dịch giả: HÀ MAI ANH

49.- Hy sinh
Thứ hai, mồng 9,
Hôm qua tôi đang mãi chép bài thì em Xylvia rón rén vào bảo tôi rằng:
- Anh lại buồng mẹ với em. Sáng nay, em nghe thấy cha nói chuyện với mẹ. Hình như có một sự gì quan trọng và không hay cho cha. Cha ra vẻ thất vọng, mẹ đem lời an ủi. Như thế có lẽ nhà ta đến lúc xuống rồi ! Anh ạ. Cha mẹ ta sẽ hết tiền. Bổn phận ta là phải hy sinh đê giúp đỡ cha mẹ, phải không anh? Nếu anh vui lòng em sẽ thưa với mẹ .Vậy anh có đồng ý với em không ?
Tôi bằng lòng. Em Xylvia dắt tôi vào phòng mẹ tôi. Lúc ấy mẹ tôi đang ngồi khâu, vẻ tư lự. Chúng tôi chạy vào ngồi cạnh mẹ tôi. Em tôi nói luôn:
- Mẹ ơi , chúng con có chuyện muốn thưa với mẹ. Mẹ tôi lấy làm ngạc nhiên, ngẩng nhìn chúng tôi.
Em tôi nói:
- Thưa mẹ, có phải cha con đang đứng vào trong cảnh thất bại không?
Mẹ tôi đỏ mặt nói:
- Con nói gì thế? Không phải đâu. Ai bảo con thế? Tại sao con biết?
Xylvia nói giọng quả quyết:
- Chả ai bảo con. Con biết rồi… Mẹ ơi, về phần chúng con, chúng con muốn hy sinh đôi chút. Mẹ hứa cuối tháng sẽ mua cho con cái quạt và cho anh Enricô hộp thuốc vẽ. Bây giờ chúng con không thích nữa. Chúng con không muốn cha mẹ phải tiêu nhiều mẹ ạ.
Mẹ tôi định nói thì Xylvia lại tiếp luôn:
- Anh Enricô và con đã quyết rồi. Cha chúng con còn chưa kiếm ra tiền thì chúng con còn phải tằn tiện. Chúng con xin nhịn ăn sáng và ăn tráng miệng. Như thế sẽ đỡ ít tiền chợ. Và nếu còn phải dè sẻn các thứ khác nữa như quần áo, giày dép, chúng con cũng xin vui lòng. Những đồ chơi của chúng con đem bán đi cũng được ít tiền. Rồi con sẽ làm con sen cho mẹ, con sẽ khâu giúp mẹ. Mẹ muốn sai bảo việc gì, con xin làm tất… Miễn là mẹ và cha khỏi phải lo nghĩ và được yên lòng…
Em tôi nói xong, mẹ tôi vừa cười vừa khóc, hôn chúng tôi và bảo rằng:
- Các con nghe lầm đấy. Nhờ trời, nhà ta chưa đến nỗi phải sa sút như các con tưởng. Mẹ cám ơn các con đã nghĩ và thương đến cha mẹ.
Tối đến, mẹ tôi đem chuyện nói lại với cha tôi. Nhưng người cha đáng thương của chúng tôi chẳng nói chẳng rằng. Chúng tôi còn đang phân vân trong dạ thì bỗng sáng nay chúng tôi được một sự ngạc nhiên và vui sướng quá chừng là em Xylvia thấy ở dưới khăn ăn cái quạt mới và tôi, một hộp thuốc vẽ 12 màu!
50.- Một vụ hoả tai
(Vụ hoả tai này đã xảy ra tại thành Tôrinô trong đêm hôm 27 tháng giêng năm 1880)
Chủ nhật, ngày 14,
Sáng nay, trong khi đang ngồi bàn viết tìm một đầu đề về bài luận tự do mà thầy giáo bảo làm hôm trước, chợt có hai ngƣời lính cứu hoả xin phép cha tôi vào xem bếp và lò sưởi vì họ trông thấy ngọn lửa trên ống khói (1) và không biết lửa tự nhà nào phát ra. Cha tôi bảo họ cứ vào mặc dầu lúc ấy bếp nhà tôi tắt cả. Họ xem xét các buồng và áp tai vào tường nghe những ống dẫn hơi của các nhà bên cạnh đi qua đấy xem có lửa hay không. Cha tôi bảo tôi rằng:
- Enricô ơi ! Đó là một đầu đề bài luận: “đội lính cứu hoả”. Hai năm trước đây, ta đã có dịp xem họ làm việc. Con hãy viết theo lời ta kể lại. Nửa đêm hôm ấy, ta đi xem hát ở rạp Balbô về đến phố La-Mã, bỗng thấy lửa sáng rực trời và một đám đông người đang chạy. Một nhà ở cuối phố đang cháy ! Khói và lửa ở những cửa sổ trên mái bốc lên ngùn ngụt. Đàn ông đàn bà chạy ra bao lơn rồi lại chạy vào, tiếng kêu khóc inh ỏi một góc trời. Công chúng kêu gào:
- Có ai vào cứu người ta không ? Họ chết cháy cả bây giờ. Các ông đội cứu hoả ơi!
Các ông đội cứu hoả ơi ! Ngay lúc ấy, 4 người lính cứu hoả vừa tới, chạy thẳng vào đám cháy. Đồng thời, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra ở trên gác thứ ba: Một người đàn bà bị ngọn lửa dồn ra bao lơn, không có lối xuống, gào khóc mất cả tiếng mà chưa ai tìm cách gì cứu đƣợc. Những ngƣời lính cứu hoả đã vào trong rồi nhưng không sao lên được tầng thứ ba vì những xà nhà đổ xuống nghe như tiếng sấm mà khói lửa lấp hết cả lối vào. Họ liền chạy ra chỗ đầu nhà chưa cháy, phá mái, dòng day leo xuống… Gió to ngọn lửa càng lan ! Người đàn bà cháy sém cả mặt, chỉ còn chút nữa là bị thiêu sống và rơi xuống đất. Bỗng người ta thấy viên đội cứu hoả mặt đen thủi ở trong đám khói lửa hiện ra đỡ lấy người đàn bà khốn khổ ấy và trao cho một người lính khác vừa áp thang leo tới.
Người ta đang hồi hộp lo cho số mệnh ba người lính đã cùng viên đội xông vào đám cháy lúc đầu, mãi không thấy ra, thình lình thấy cửa sổ ở tầng thứ nhì tung ra, người ta vội mang thang lại thì mấy người lính ấy liền chuyền tay nhau ôm những nạn nhân ra và trao cho người lính khác đứng đón ở cầu thang : một đứa con gái, hai đứa con trai, một người đàn bà, một ông lão. Những người này đều được vô sự. Mặc dầu ngọn lửa lem lém bên mình, viên đội cứu hoả , người đã trèo lên đầu tiên, đứng lại cho mọi người xuống hết để xuống cuối cùng. Công chúng đều ngợi khen tất cả những người lính can đảm vừa xuống.
Nhưng đến lượt viên đội là kẻ xung phong của đội, là người đã vào sinh ra tử để làm gương cho bạn đồng đội, là người sẽ phải chết theo nếu một người trong bọn lỡ thiệt mạng, vừa để chân xuống đất, thảy đều hò reo nhiệt liệt và giơ tay chào một cách kính cẩn và biết ơn. Rồi chỉ trong giây lát, cái tên Rôbinô xưa nay chẳng ai biết đến, đã truyền khắp cửa miệng. Con ơi như thế gọi là can đảm đấy ! Đã gọi là can đảm thì không bao giờ suy luận, không bao giờ nghĩ ngợi, đi luôn đến chỗ có tiếng thất vọng kêu gào! Hôm nào rỗi, cha sẽ đưa con đi xem đội cứu hoả diễn tập và chỉ cho con viên đội Rôbinô. Chắc con sẽ thích…
- A ! May quá ! Ông đội Rôbinô đây rồi ! Tôi ngoảnh lại thì hai ngƣời lính cứu hoả vào bếp ban nãy đang trở ra và đi trong sân.
Cha tôi chỉ vào người bé nhất đeo lon vàng, bảo tôi:
- Con ra bắt tay ông đội Rôbinô đi!
Ông đội dừng lại, tươi cười đưa tay cho tôi bắt, xong chào cha tôi rồi ra. Cha tôi nói thêm:
- Con nên nhớ rằng: trong đời con, con sẽ bắt tay trăm, nghìn người, nhưng cha quả quyết rằng trong trăm, nghìn bàn tay ấy hồ dễ con đã kiếm được lấy mười bàn tay có giá trị như bàn tay can đảm của viên đội cứu hoả vừa ra. —————–
Chú thích: (1) Ống khói chung của cả khu nhà có nhiều chủ ở.
51.- Quê người tìm mẹ
(Truyện đọc hàng tháng)
Cách đây vài năm có một đứa bé 13 tuổi là con một người thợ đã mạo hiểm đi một mình từ thành Giênôva sang Mỹ Châu để tìm mẹ. Tên cậu là Marcô. Nhà cậu nghèo. Cha làm thợ kiếm không đủ ăn nên mẹ cậu phải đi ở cho một nhà ở thành Buênox Airex, thủ phủ nước cộng hoà Arhentina ở Nam Mỹ Châu. Sở dĩ mẹ cậu phải đi xa như thế là vì ở bên ấy những người làm được trả công cao.
Tại thành Buênox Arex, cha cậu có một người em họ mở hiệu buôn, nên tin tức cứ do người này nhận và gửi giúp. Năm thứ hai, ở nhà chỉ nhận được một lá thư nói bà bị bệnh rồi thôi không tiếp được tin gì khác nữa. Cha cậu viết thư hỏi người em họ, đợi mãi không thấy trả lời. Cha cậu liền viết thẳng cho người chủ nhà, thơ bị trả lại vì đề sai địa chỉ. Sốt ruột, cha cậu làm đơn nhờ toà Lãnh sự Italia ở đấy điều tra giúp nhưng cũng vô hiệu vì có lẽ mẹ cậu tưởng nghề đi ở là hèn nên đã giấu tên để khỏi phương hại đến gia đình.
Thấy cha buồn rầu, Marco quả quyết xin cha cho phép sang Nam Mỹ tìm mẹ. Cha cậu đang phân vân, may sao lại có người bà con quen với một viên quan Ba tàu thuỷ xin cho cậu được vé hạng ba không mất tiền nên ý định của cậu được thực hiện ngay. Một buổi chiều đẹp về tháng tư, cha cậu đưa cậu xuống tàu. Mất 27 ngày lênh đênh trên mặt bể, cậu âm thầm chịu bao nhiêu nỗi khổ tâm : phần nhớ nhà, phần lo mẹ có khi đã qua đời, phần bị say sóng lắm khi tưởng đến phải bỏ thân trong bể cả. Một buổi rạng đông tháng năm, tàu cập bến Buênox Airex , trên sông Laplata . Sau khi từ biệt người bạn đồng hành là một ông già người xứ Lombar, cậu xách va-li lên bộ thẳng đường vào thành phố. Cậu hỏi thăm mãi mới tìm được phố Lox Artex là nơi người chú họ tên là Mêrelli ở đấy. Đến số nhà 171 hỏi thăm thì có một người đàn bà trả lời bằng tiếng Italia:
- Ông Mêrelli đã mất một vài tháng nay. Cửa hàng bán lại cho tôi rồi!
Được tin như sét đánh bên tai, cậu xám mặt lại hỏi:
- Ông Mêrelli quen với mẹ tôi. Mẹ tôi ở cho ông Mêkinêx tỉnh này. Vậy bà có biết nhà, xin làm ơn chỉ giúp. Tôi đi từ nước Italia sang đây chỉ có việc tìm mẹ tôi.
Bà chủ động mối thương tâm, liền gọi thằng nhỏ vẫn chạy giấy cho ông Mêrelli ra hỏi, nó biết ngay và vui lòng dẫn cậu lại nhà ông Mêkinêx cách đấy không xa. Đến nơi, cậu giật chuông, một người con gái ra mở cửa. Cậu hỏi, người con gái ấy trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Nhà ông ấy đã dọn về Corđôva rồi.
- Thành Corđôva ở đâu, thưa cô ? Người vú già người Italia , mẹ tôi đó, có đi theo không
Người con gái chạy vào gọi cha. Một ông to lớn, râu đen ra hỏi đầu đuôi. Thấy vậy, ông thương tình mời cậu vào nhà, cấp cho ít tiền và viết một phong thư giới thiệu cậu với một người bạn ở tỉnh Larôxarioo và gửi cậu đến Corđôva. Vị ân nhân ở Labôca lại cho cậu một tấm thiếp để đưa cho một người bạn thân ở thành Rôrioo. Sau 3 ngày và 4 đêm đi thuyền trên sông Parana cậu tới thành phố Rôrioo vào một buổi sáng. Thành phố này ở ngay bờ sông, những bóng lâu đài tráng lệ phản chiếu xuống mặt sông coi rất ngoạn mục.
Vào thành phố Rôrio, cậu có cảm giác như là lộn lại các thành phố khác mà cậu đã qua vì trước mặt vẫn thấy những phố dài dằng dặc, thẳng băng và chia các ngả trong một khoảng đất phẳng phiu, hai bên vẫn thấy nhà cửa trắng thấp và diêm dúa như những hoa trang trên bãi bể, trên đầu vẫn thấy những dây điện báo chằng chịt như màng nhện. Cậu tìm được đến vị cứu tinh ghi trong tấm thiếp, vào hỏi thì người quản gia đáp:
- Ông chủ và cả gia quyến vừa mới về quê ở Buênox Airex rồi.
Cậu thất vọng kêu:
- Chết chửa! Tôi làm thế nào bây giờ? Tôi một thân một mình đến đây, cần gặp ông chủ để người giúp cho một việc…
Người quản gia sừng sộ:
- Đã bảo đi vắng! Giúp cái gì? Ở đây đã thừa dân Italia lắm rồi ! Mày trở về nước Italia mà xin ăn.
Cậu cực nhục vô cùng, xách vali trở ra, óc rối bời bời. Biết làm thế nào bây giờ? Từ Rôxario đến Corđôva còn cách một ngày xe lửa nữa mà trong túi chỉ còn có vài lira. Buồn và mệt, cậu đặt cái vali xuống hè, ngồi lên, lưng dựa vào tường, hai tay bưng mặt… Chợt có người đến vỗ vai hỏi bằng tiếng Italia:
- Ngồi làm gì đây?
Cậu ngẩng nhìn thì ra ông lão đồng hương đã cùng đi với cậu một chuyến tàu. Cậu kể hết sự tình, ông già nghĩ được một diệu kế. Ông liền đưa cậu vào khách sạn “Ngôi sao nước Italia” giữa lúc những kiều dân Italia đang ăn uống. Ông giới thiệu cậu là một đứa con nhỏ đã vượt trùng dương và chịu đói khát để đi tìm mẹ. Ai cũng có lòng thương hại cậu, vì thế trong có mười phút đã thu được 40 lira. Sáng hôm sau, cậu lên tàu đi Rôxario, chập tối thì đến nơi. Nhờ một vị linh mục chỉ đường, cậu tìm đến nhà kỹ sư Mêkinêx gõ cửa, có một bà già cầm đèn ra hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Hỏi ai?
Cậu đáp:
- Tôi hỏi ông kỹ sư Mêkinêx.
Bà già khoang tay vào ngực, lắc đầu đáp:
- Mày cũng hỏi ông Mêkinêx à? Đã ba tháng nay người ta cứ đến nhiễu mãi. Những tin đăng báo vẫn chưa đủ à ? Dễ thường phải yết thị khắp các phố phường là ông Mêkinêx đã dọn đi Tucuman rồi người ta mới để yên?
Marcô phát uất nói:
- Trời ơi ! Có lẽ tôi phải chết ở đây và không đƣợc nhìn mặt mẹ tôi!… Xin bà làm ơn bảo giùm tỉnh ấy ở đâu? và cách bao xa?
- Thành Tucuman cách đây bốn năm trăm dặm.
Marcô nức nở khóc . Bà già thƣơng hại bảo:
- Nhà số 3 đầu phố này có người lái buôn thường chở hàng bằng xe bò đi Tucuman. Mày thử lại hỏi xem họ có cho đi nhờ không?
Marcô lại hỏi thì ngƣời lái buôn bảo :”Hết chỗ rồi !” Trong lưng chỉ còn 15 lira, cậu kêu van với người lái buôn xin đưa cả và đi đường có việc gì xin làm giúp. Người lái buôn nói:
- Ta không đi Tucuman. Lần này, ta đưa hàng di Satiagơ. Vậy đến chỗ rẽ thì mày xuống. Nhưng còn phải đi bộ đến 20 ngày nữa mới đến Tucuman, mày có đi được không ? Đường vắng và khó đi lắm!
- Thưa ông, được. Tôi chịu được tất cả, miễn là tìm thấy mẹ tôi!…
Được thế hôm nay mày ngủ ở xe, mai đi sớm. Bốn giờ sáng hôm sau, dưới trời sao lấp lánh, một đoàn xe mỗi chiếc do 6 con bò kéo cùng một đàn bò nữa để thay phiên, khởi hành trong một bầu không khí tĩnh mịch. Khi đi đường, Marco thường bị những phu xe sai bảo và hành hạ. May nhờ được người chủ nhân đạo, bọn kia cũng không dám quá tay và mấy hôm bị chứng sốt rét, cậu được trông nom tử tế.
Ngày thứ 16 là hôm cậu khỏi bệnh và cũng là hôm cậu phải rời đoàn xe để về lối Tucuman. Sau mấy câu dặn dò, người chủ xe bắt tay từ biệt. Marco một mình lủi thủi xách vali đi về phía tây, trong dạ buồn rầu. Nhưng một điều làm cho cậu phấn khởi đôi chút là trước mặt cậu, ở chân trời hiện ra một dãy trường sơn, ngọn cao và trắng coi tựa dãy Alpe, cậu tưởng tượng nhƣ được ở gần quê hương cậu. Nhưng nào có phải là núi Alpe đâu, chính là dãy núi Anđex tục gọi là “sống lưng” của Tân thế giới, đi từ Xích địa miền Nam cho đến Băng dương miền Bắc. Hôm thứ nhất Marcô đi cho đến lúc kiệt lực rồi nằm ngủ ở cạnh gốc cây. Hôm sau lại khởi hành nhưng chậm hơn và kém phần hăng hái. Hôm thứ ba, giày rách, chân đau, dạ đói! Tối đến, cậu giật mình thon thót vì ngƣời ta nói ở đây lắm rắn độc ! Mặc dầu mỏi mệt, đói khát, cậu vẫn cố đi, đi mãi, đi qua những chòm cây lạ mắt, qua những đồng mía xanh tươi, qua những đồng cỏ mênh mông, trước mặt vẫn nhìn thấy ngọn núi xanh lởm chởm trong nền trời không vẩn một đám mây. Bốn hôm, năm hôm, một tuần lễ qua. Sức cậu đã cùng. Chân cậu đổ máu. Thì chiều hôm ấy, người ta bảo cậu:
- Tucuman còn cách đây 50 dặm.
Marcô mừng rỡ reo lên và đi rảo bước; bụng bảo dạ:
- Mẹ ơi bây giờ mẹ ở đâu? Mẹ có biết con đang ở gần mẹ không?
Khốn khổ thay cho Marcô. Nếu cậu biết rõ tình trạng mẹ cậu lúc ấy thế nào thì cậu muốn mọc ngay cánh để kịp bay đến cạnh người. Lúc ấy, bệnh tình mẹ cậu đang ở trong thời ký trầm trọng. Vợ chồng viên kỹ sư Mêkinêx đang đứng bên giường bệnh khuyên bệnh nhân nên để cho Bác sĩ mổ thì mới có cơ qua khỏi . Bệnh nhân đáp:
- Cám ơn ông bà có lòng nhân đức trông nom tôi tựa người nhà. Nhưng tôi không còn đủ sức để chịu sự mổ xẻ. Tôi sẽ chết. Xin ông bà để yên cho tôi chết. Chồng con tôi không có tin tức, chắc bị tai biến gì đây… Tôi còn sống làm gì?..
Vợ chồng viên kỹ sư cố nài hai ba lần nữa, song bà ta chỉ khóc và ngất đi. Ông bà Mêkinêx hết sức chăm sóc cho người mẹ đáng khen ấy đã vì sinh kế của gia đình đem thân đến một nơi xa quê hương hơn 3000 dặm, sau khi chịu bao nhiêu nỗi cơ khổ gian lao! Sáng sớm hôm sau, vali đeo trên lưng, Marcô, hốc hác và rách rưới, thất thểu vào thành Tucuman một thành phố mới mở vào hạng phồn thịnh nhất nước Arhentina. Marcô đang ngẩn ngơ chưa biết hỏi ai, bỗng thấy một cửa hàng ngoài đề chữ Italia, cậu liền đánh bạo vào hỏi:
- Thưa ông, ông có biết nhà ông kỹ sư Mêkinêx ở đâu , xin ông làm ơn bảo giúp?
Chủ hiệu đáp:
- Ông Mêkinêx không ở đây nữa.
Marcô choáng người, kêu lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất. Chủ hiệu đỡ dậy, hỏi chuyện rồi bảo:
- Em đừng nản lòng. Ông kỹ sư tuy không ở Tucuman nữa, nhưng ở gần đây, đi bộ vài giờ thì tới nơi.
- Thưa ông, ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?
- Ở bờ sông Salađinô. Ở đấy ngƣời ta đang xây một nhà máy làm đường, kỹ sư ở khu nhà bên cạnh. Đến đấy hỏi ai cũng biết.
Một người hàng xóm nghe tiếng kêu vừa chạy sang thấy vậy nói tiếp:
- Hai tuần lễ trƣớc tôi đã vào đấy, có gặp kỹ sư .
Cậu hỏi luôn:
- Thế anh có gặp người vú già nhà kỹ sư, ngƣời Italia không?
- Có , tôi có trông thấy!
Cậu sung sướng quá vừa khóc vừa nhảy lên. Mọi người khuyên cậu nên nghỉ ngơi cho lại sức, mai sẽ đi Salađinô. Nhưng cậu khăng khăng nói:
- Cảm ơn các ông. Tôi đi cốt để tìm mẹ tôi! Dù chết ngay giữa đường, tôi cũng đi!
Vài phút sau, vali lại đeo trên lưng, cậu khập khiễng lên đường, rồi biến trong đám cây rậm rạp. Đêm ấy là đêm ghê gớm nhất cho bệnh nhân. Bà đau đớn, rên rỉ, lắm lúc mê man. Bác sĩ bảo:
- bà đau về chứng bệnh thì ít mà về tinh thần thì nhiều.
Sáng hôm sau, ông bà Mêkinêx lại đưa bác sĩ vào thăm. Bác sĩ khuyên:
- Nếu bà cho mổ thì thế nào cũng khỏi, bằng không thì không còn phương gì cứu được nữa.
Bà ta lắc đầu nói trong hơi thở:
- Cảm ơn bác sĩ, tôi còn có can đảm để đợi chết, chứ không còn lúc để chịu đau đớn một cách vô ích. Xin bác sĩ cho tôi chết yên lặng thì hơn!
Xong bà quay lại trối với bà chủ:
- Thưa bà sau khi tôi chết rồi xin bà làm ơn nhờ toà lãnh sự Italia gửi ít tiền tôi để dành về cho chồng con tôi. Tôi mong rằng chồng con tôi vẫn được bình yên. Và bà nhớ bảo giúp rằng lúc lâm chung tôi vẫn nhớ đến chồng tôi, hai con tôi và nhất là thằng Marcô.
Ngoài phòng có tiếng động. Mấy phút sau, bác sĩ và ông Mêkinêx cùng vào, nét mặt có vẻ khác. Hai ngƣời nói nhỏ với nhau:
- “Đỡ ngay lập tức! “
Bệnh nhân không hiểu sao cả. Ông Mêkinêx cất tiếng run run nói:
- Chị ơi ! Tôi có một tin hay muốn báo cho chị biết. Chị hãy định thần lại để nhận tin ấy. Tin ấy sẽ làm cho chị được hài lòng.
Con ngươi bệnh nhân mở rộng.
- Chị hãy sửa soạn để tiếp một người… một người mà chị yêu mến nhất, nhớ thưong nhất!
Bà Guixếpa sẻ ngẩng đầu lên nhìn tứ phía. Kỹ sư nói tiếp:
- Người ấy đã lặn ngòi ngoi nước đến đây một cách bất ngờ… và đã ở đây rồi!
Bệnh nhân thở hổn hển hỏi:
- Ai ? Ai thế?
Tức thì Marcô rách rưới, lấm láp, ở ngoài bước vào. Bác sĩ đứng trong ngưỡng cửa, cầm cánh tay cậu giữ lại. Bệnh nhân kêu ba lần:
- Chính con tôi ! Con tôi ! Con tôi!
Marcô chạy vào, như có phép thần thông giúp đỡ, mẹ cậu nhỏm dậy ôm lấy cậu như một con hổ đói mồi, vừa cười vừa khóc, hôn cậu và hỏi:
- Sao con lại đến đây ? Con độ này lớn quá ! Ai đưa con đi? Hay con đi một mình? Con có ốm không? Chính con là Marcô của mẹ? Không phải là giấc mộng chứ? Con nói cho mẹ hay…
Nói đến đây bà chợt đổi giọng và bảo:
- Khoan đã ! Con sẽ nói sau.
Rồi quay lại bảo bác sĩ:
- Thưa bác sĩ bây giờ tôi muốn khỏi bệnh. Tôi sẵn sàng để ngài cứu cho… Xin ngài cấp cứu cho… Con hãy ra ngoài đợi một lát…
Kỹ sư đưa Marcô ra. Bác sĩ và y sĩ ngoại khoa mang các khí dụng vào và đóng cửa phòng lại. Lát sau bác sĩ hớn hở ra phòng bảo Marcô:
- Mẹ con đã được cứu thoát!
Marcô liền quỳ trước mặt bác sĩ khóc nức nở nói:
- Đội ơn bác sĩ đã cứu sống cho mẹ con!
Bác sĩ đỡ Marcô dậy và khen:
- Con hãy đứng dậy. Con thực là một đứa trẻ phi thường. Chính con đã cứu sống mẹ con !